Wednesday, June 2, 2010

CHƯƠNG 12: ĐIÊN ĐẢO VÀ CHÂN THẬT

THÍCH THANH TỪ

Không thể nghĩ bàn là diệt đế vượt quá cảnh giới sở duyên của tâm thức tất cả chúng sanh, và cũng vượt quá cảnh giới trí tuệ của tất cả A la hán, Bích chi Phật.

Ví như trẻ mới sanh đã bị mù mắt không thấy được các màu sắc. Như trẻ mới sanh bảy ngày không thấy vừng mặt trời. Chân lý diệt khổ cũng vậy, không phải cảnh giới sở duyên của tâm thức tất cả phàm phu, cũng không phải cảnh giới trí tuệ của nhị thừa.

Tâm thức của phàm phu có hai kiến chấp điên đảo. Trí huệ của tất cả A la hán, Bích chi Phật thì thanh tịnh.

Biên kiến nghĩa là phàm phu đối với năm thụ ấm thì chấp ngã, vọng tưởng trói buộc mà sinh ra hai kiến chấp gọi là biên kiến. Đó là thường kiến và đoạn kiến.

Thấy các pháp vô thường là đoạn kiến không phải chánh kiến. Thấy Niết bàn thường là thường kiến, không phải chánh kiến.Vì do vọng tưởng thấy thế nên có kiến chấp như vậy.

Đối với các căn của thân, phân biệt tư duy hiện pháp thấy có hư hoại còn cái liên tục không dứt thì không thấy, nên sinh đoạn kiến. Đó là do vọng tưởng nên thấy vậy.

Đối với tâm thức nối nhau liên tục thì ngu tối không rõ, không biết đó là cảnh giới của ý và thức trong từng sát na, nên sinh thường kiến. Đó là do vọng tưởng nên thấy như vậy.

Cái kiến chấp vọng tưởng này, đối với nghĩa kia, khi thái quá khi bất cập mà nảy sinh ý tưởng phân biệt khác đi, hoặc đoạn hoặc thường, chúng sanh điên đảo đối với năm thụ ấm vô thường tưởng thường, khổ tưởng có vui, vô ngã tưởng ngã, bất tịnh tưởng tịnh.

Đối với tịnh trí của tất cả A la hán, Bích chi Phật thì vốn không biết đến cảnh giới nhất thiết trí và Như Lai pháp thân, nhưng nếu có chúng sanh vì tin lời Phật nói mà sanh ý tưởng về thường lạc ngã tịnh thì đó không phải kiến chấp điên đảo, đó là chánh kiến.

Bởi vì sao ? Vì Như Lai pháp thân là thường Ba la mật, lạc Ba la mật, ngã Ba la mật, tịnh Ba la mật. Có kiến giải về pháp thân Phật là chánh kiến.

Người có chánh kiến là thật sự Phật tử, từ miệng Phật sanh, từ chánh pháp sanh, từ pháp Phật hóa sanh, được của cải giáo pháp thặng dư.

- Thưa Thế Tôn, tịnh trí này là trí Ba la mật của tất cả A la hán, Bích chi Phật. Tịnh trí này tuy nói là tịnh trí vẫn không phải cảnh giới của hai thức diệt đế kia, huống nữa là trí bốn y.

Bởi vì sao ? Vì tam thừa sơ nghiệp nếu không ngu pháp, sẽ giác ngộ chứng đắc lý kia. Thế Tôn nói bốn y chính vì họ. Thưa Thế Tôn bốn y này là pháp thế gian.

Thưa Thế Tôn ! Một sở y là nơi y. Chỉ trên tất cả sở y xuất thế gian đệ nhất nghĩa cao tột chính là diệt đế.

MẬT TRUYỀN THAM THIỀN YẾU PHÁP

Hạ thủ công phu tu thiền, điều cốt yếu thứ nhất phải lập chí vững chắc. Bởi vì chí là vị nguyên soái của khí lực. Nếu người lập chí vững chắc, như thống lãnh trăm vạn quân, uy thế dậy trời, còn việc gì chẳng thành. Người hay sợ khó là tại lập chí không vững. Người chạy theo cảnh cũng tại lập chí không vững. Người nghe chê khen bèn dời đổi, giữa đường tự lùi, trước siêng sau lười, đều là chí không vững. Tôi thường tuyển đọc sách Tâm pháp, mở đầu sách đã thấy nói : “Lập chí nếu vững đổi khó thành dễ”. Nay đối với công phu tu thiền cũng như thế.

Chí vững thì sự ắt thành, tôi mượn việc đời để bàn điều này, ví như vua Việt phục thù vua Ngô, Trương Lương trả hận nước Hàn, Địch Nhân Kiệt tái hưng nhà Đường, thảy đều do chí quyết định mà việc được thành công đúng sở nguyện. Phật Pháp cũng như thế.

Ngạn ngữ nói : “Người nam không chí như sắt lụt không cứng, người nữ không chí như cỏ thối không tươi”. Công phu tu thiền chí này rất là tối yếu.

Đại sư Trung Phong ca rằng :

Cũng không khó cũng không dễ,

Chỉ quý nam nhi có thật chí,

Thật chí sức đạo mới vững mạnh,

Sức mạnh tiến đạo như trò chơi.

Đây là phương pháp ứng nghiệm vậy.

*

Hạ thủ công phu tu thiền hoàn toàn ở chỗ giác ngộ. Cần biết, phàm phu một niệm giác, tức một niệm là Phật. Phật một niệm chẳng giác, tức một niệm là phàm phu. Bởi vì giác tức là Phật, Phật tức là giác. Phật với phàm phu chỉ tại giác cùng chẳng giác mà thôi.

Tâm người có giác tức là có Phật. Giác hay mở cửa lục độ, hay vượt qua kiếp hải ba a-tăng-kỳ, khắp làm lợi ích như cát bụi, khuếch trương phước tuệ, được sáu thứ thần thông, tròn đầy quả Phật trong một đời. Cảnh khổ trong địa ngục, nào vạc dầu sôi, sông băng, nghe đến giác liền biến thành hương lâm (rừng hương); uống nước đồng sôi, nuốt hoàn sắt nóng, nghe đến giác thảy đều sanh Tịnh độ.

*

Hạ thủ công phu tu thiền, tôi có một câu diệu quyết, chỉ bốn chữ Kiên Trì Chánh Giác. Cốt biết tín lực là kiên, nghĩa là kiên cố không biến đổi. Niệm lực là Trì, nghĩa là nắm giữ lâu mấy cũng không chán. Chánh giác là tròn sáng soi khắp, không lệch chẳng thiếu. Người hay phát Chánh giác thì bản tánh tự nhiên hiển lộ, tất cả vọng tâm chẳng đợi đuổi dẹp mà tự hàng phục. Ví như ánh sáng mặt trời vừa soi thì tối tăm hết sạch. Đây tuy bốn chữ, kỳ thật chỉ một chữ Giác. Một chữ Giác này đều do Định Tuệ mà được.

Chẳng sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm. Niệm khởi liền giác, giác nó liền không. Diệu pháp tu hành chỉ tại nơi đó. Ví như biết là giấc mộng thì không còn mê.

Người biết được cái giác này, cần yếu chấn khởi tinh thần như vị tướng quân đang ở trong trận, như vị quan tòa tại pháp đình, không được dính một mảy hôn trầm.

*

Hạ thủ công phu tu thiền cần phải lập chí cho vững, lại cần “thường hằng”. Nếu không thường hằng phần nhiều đến giữa đường bỏ cuộc, hoặc được chút ít rồi tự dừng, đều là tự bỏ. Thật đáng tiếc !

*

Hạ thủ công phu tu thiền rất sợ gián đoạn. Nếu siêng tu một tháng đã lên bậc Thượng thừa, chỉ có gián đoạn năm, mười ngày thì bậc Thượng thừa kia chẳng biết ở đâu ? Lại chẳng được vịn vào sự siêng năng của tháng trước mà sanh ỷ lại.

*

Hạ thủ công phu tu thiền rất sợ hôn trầm tán loạn. Cái hôn trầm tán loạn này đều do chính mình lập chí không vững, lòng tin đạo không thiết tha mà đến như thế. Thật là đáng tiếc !

Hạ thủ công phu tu thiền hoàn toàn tại “tự tham tự ngộ”. Dù cho thân thiết như cha con thầy bạn đều không thể thay thế được, cũng không phải như kỹ nghệ ở thế gian có thể truyền trao cho được. Ví như người khác ăn cơm thì chỉ người ấy bụng được no, chớ bụng mình vẫn đói. Đại sư Huệ Tư nói : “Nguồn đạo chẳng xa, tánh biển chẳng cách, chỉ chính mình cầu, chớ từ nơi người mà tìm, tìm cũng chẳng được, dù được cũng chẳng chân”. Đây có thể gọi là cầu người chẳng bằng cầu nơi mình vậy.

*

Hạ thủ công phu tu thiền ngày đêm hai mươi bốn giờ đều là giờ dụng công phu. Nếu canh năm ngủ thức dậy, hoặc gần sáng dậy sớm, áp dụng công phu, thì công phu này kết quả gia bội. Cần biết, lúc trời rựng sáng là khí trời đất thanh sảng, cần phải nắm lấy, không nên thả trôi qua ngày.

*

Hạ thủ công phu tu thiền chẳng cần canh năm ngủ, canh ba dậy, chỉ sợ một ngày nóng mà mười ngày lạnh thôi.

*

Hạ thủ công phu tu thiền cần biết, ở trần thế có rất nhiều cảnh ác, như sanh già bệnh chết, lo buồn khốn khổ, dàm danh khóa lợi, gió sợ sóng hoảng, dù có chút ít vui vẻ cũng chỉ là hoa đốm giữa hư không chẳng thật, tạm thời không lâu. Cốt phải khán cho thấu triệt, mới biết Phật pháp là việc cứu ta ra khỏi biển khổ, mới là mừng rỡ vui vẻ.

*

Hạ thủ công phu tu thiền, nếu được mừng rỡ vui vẻ thì tự nhiên thay đổi dụng công, tự nhiên tinh tấn chẳng lười. Được mừng rỡ vui vẻ rồi, cần phải xem các việc khổ sở sanh già bệnh chết của người đời đều là cái gương ta chẳng dụng công, vậy tại sao dám lơ là ?

*

Hạ thủ công phu tu thiền, rất sợ nói lời vô ích, chăm nom việc vô ích. Nói lời vô ích, chăm nom việc vô ích đều khiến tâm người tán loạn, tinh thần dao động, không có lợi lại có hại. Lại đem thời giờ quý báu thả trôi sông. Thật là đáng tiếc !

*

Hạ thủ công phu tu thiền, nếu khi dụng công nhiều thì khó khỏi nhọc nhằn, cần phải đi bách bộ thong thả, đi thong thả để nuôi dưỡng tinh thần, đợi tinh thần thơ thới rồi lại khởi dụng công thì tự nhiên sáng suốt giác ngộ. Nếu tinh tấn đến khổ nhọc lừ đừ, đã lừ đừ lại khổ nhọc dụng công, thì không những tánh mờ tối chẳng lanh sáng, mà lại thân thể yếu đuối, bệnh tật phát sanh. Khi bệnh tật phát sanh thì công phu hết, thế là muốn mau mà trở thành chậm.

*

Hạ thủ công phu tu thiền, một ngày qua phải thấy là một ngày tinh tấn. Nếu là lơ thơ lững thững, dù trải qua trăm kiếp ngàn đời cũng không có ngày được thành công. Người xưa khi dụng công, đốt một cây hương, thấy cây hương tàn rồi, liền tự nhắc rằng : “Công phu như trước không có thêm bớt, một ngày bao nhiêu cây hương, một năm bao nhiêu cây hương ? Năm tháng dễ qua, ngày giờ không đợi người, việc lớn chưa sáng, ngày nào mới xong ?” Do đó, đau xót hối tiếc, lại thêm phần cố gắng. Nhà nho Châu Văn Công nói : “Chớ bảo ngày nay chẳng học còn có ngày mai, chớ bảo năm nay chẳng học còn có năm tới, ngày tháng trôi qua, năm chẳng đợi người. Than ôi ! Già rồi, lỗi bởi tại ai ?” Công phu tu tập Phật pháp cũng như Nho học này, chỉ hai chữ Thời Tập là thành tựu một đời, chỉ bốn chữ “Hãy đợi ngày mai” là sai lầm một đời.

*

Hạ thủ công phu tu thiền tuy không thể dừng chậm, mà cũng không thể quá gấp. Ví như người đi bộ giỏi, mỗi ngày có thể đi bộ được một trăm dặm, mà chỉ đi bộ bảy tám mươi dặm, thì khí lực còn thừa, gân cốt không mỏi; nếu ỷ vào sức mạnh đi hơn trăm dặm tự nhiên phải gắng đi thật nhanh, ắt sanh mỏi mệt, thì ngày mai không thể đi nổi. Người hạ thủ công phu thường thường sanh bệnh hoạn đều do như thế.

*

Hạ thủ công phu tu thiền nếu thân thể nhọc nhằn, cần phải dùng sức chuyển động hai vai đến trước lại sau, lên xuống vài chục lần thì thân thể điều hòa, huyết mạch lưu thông, tinh thần sảng khoái, chẳng sanh các bệnh. Đây là phương pháp Lộc Lô Song Quan của nhà tu dưỡng, nó cũng hay đuổi được khí lạnh.

*

Hạ thủ công phu tu thiền, hoặc có người hỏi : “Chỉ lấy tham ngộ làm chủ, đâu cần bảo dưỡng thân thể ?”. Tôi sẽ đáp : Đây là mượn giả để tu thật. Ví như nấu trà, nếu không có lò lửa thì trà đâu thể tự chín, vả lại lò hư lửa tắt thì sức lạnh càng thêm. Việc nhỏ chẳng tốn bao nhiêu công, mà e việc lớn không nhất định thành, trái lại đến phí thời giờ, không kết quả. Người sáng tự hiểu đó.

*

Hạ thủ công phu tu thiền, ban ngày tinh tấn không biếng trễ, chẳng cần phải nói, phàm mỗi tối dụng công chỉ hơn một canh, không cần quá lâu. Nếu người quá nửa đêm không ngủ thì máu không trở về gan, hôm khác sanh bệnh là do tại đó. Lại có một hạng người hay mài luyện không nằm, đâu không biết công phu tu hành Phật pháp chẳng phải tại ngủ cùng không ngủ.

*

Hạ thủ công phu tu thiền, đi đứng nằm ngồi đều có thể dụng công. Hoặc ngồi lâu rồi cần phải đi đứng, hoặc đi lâu rồi cần phải ngồi lại, chẳng chuyên ngồi. Có người học ngồi luôn không nằm, Lục Tổ dạy : “Sống đây ngồi chẳng nằm, chết đi nằm chẳng ngồi, chỉ một đầu xương thúi, sao lấy làm công khóa ?” Đây thật rõ ràng về lẽ ngồi nằm vậy.

*

Hạ thủ công phu tu thiền tối yếu phải phá tâm sanh tử cứng chắc, xem xét thế giới thân tâm đều là giả duyên không thật. Nếu không phát minh được đại sự sẵn đủ của mình, thì tâm sanh tử không thể phá. Tâm sanh tử đã không phá được, thì con quỉ vô thường niệm niệm chẳng dừng làm sao đuổi được. Phải lấy một niệm này làm hòn gạch gõ cửa. Ví như đang ngồi trong đống lửa lớn cố tìm lối thoát ra, chạy quanh một bước cũng không được, dừng lại một bước cũng không được, sanh một niệm khác cũng không được, trông người khác cứu cũng không được. Chính khi ấy, cần phải chẳng ngại lửa mạnh, chẳng kể thân mạng, chẳng trông người cứu, chẳng sanh niệm khác, chẳng chịu tạm dừng, nhắm trước chạy thẳng, chạy ra rồi mới là người giỏi.

*

Hạ thủ công phu tu thiền cần lấy một chữ Tử dán ở trên trán, xem thân thể máu thịt này như đã chết đi, chỉ cốt thấu rõ một niệm. Một niệm hiện tiền, như được cây Ỷ Thiên trường kiếm, nếu chạm mũi nhọn của nó không thể được, nếu cà nhám cọ lụt thì kiếm ấy bỏ đi vậy.

*

Hạ thủ công phu tu thiền rất sợ say mê cảnh tịnh, nó khiến người chìm chỗ khô lặng mà không biết. Cốt hiểu rằng cảnh động nhiều người chán, cảnh tịnh đa số không sanh chán. Bởi vì người đời một bề ở chỗ ồn náo, nên thích hợp với cảnh tịnh, như ăn kẹo ăn đường, như người mệt lâu thích ngủ, tự nhiên tham trước mà không tự biết, cần phải mau mau phá dẹp.

Ngoại đạo dạy người khiến thân tâm đoạn diệt hóa thành cây khô tro lạnh, cũng từ nơi tịnh cảnh mà vào. Nếu lâu năm chầy tháng, khô lại càng khô, lặng lại càng lặng, sa vào chỗ không biết, thì cùng cây khô tro lạnh khác gì ? Người hạ thủ công phu ở chỗ cảnh tịnh, cốt để phát minh một đoạn đại sự ở trong y áo của mình mà lâu rồi không biết, nay nhờ ở cảnh tịnh mới được. Cái đại sự đó tìm nơi tướng tịnh trọn không thể được, thế mới là được vậy.

*

Hạ thủ công phu tu thiền, thiết yếu tại định tuệ. Cần biết, định với tuệ như đồng một vật bên trong và bên ngoài, là hai mà không phải hai, chia rời không được. Khi định sanh thì hôn trầm cũng theo đó mà sanh, nếu hôn trầm sanh thì định mất. Khi tuệ sanh thì tán loạn cũng theo đó mà sanh, nếu tán loạn sanh thì tuệ mất. Ta có diệu pháp điều trị, cần phải định lóng sáng thì định với tuệ mới thành công. Cần phải tuệ an tường, thì tuệ với định mới thành công. Hai cái này lìa nó không được, hợp cũng không được, lẫn nhau thành một mới thật là diệu pháp. Khéo biết pháp này thì thành đạo không khó.

Người cầu minh tâm kiến tánh, thành Phật thành Tổ, chỉ ở trên định tuệ dụng công. Biết được cái diệu của định tuệ thì dễ như trở bàn tay, bằng không biết cái diệu của định tuệ thì khó như lên trời. Khó hay dễ đều tại chính mình đảm đang lấy.

Định là thể của tuệ, tuệ là dụng của định. Ví như ngọn đèn với ánh sáng, ngọn đèn là thể của ánh sáng, ánh sáng là dụng của ngọn đèn. Hai cái đều lẫn nhau hiển bày, không nên thiên trọng một cái.

Chính khi tuệ thì định ở trong tuệ, chính khi định thì tuệ ở trong định. Tên tuy có hai, thể vốn không khác. Chỉ có định mà không tuệ liền theo đó bị hôn trầm, chỉ có tuệ mà không định liền theo đó bị tán loạn. Cần phải gồm hai, không thể chia rời.

Ở đoạn trên, tôi nói phương pháp điều trị định tuệ đã xong, vẫn còn ngại có người chưa rõ. Giờ đây, tôi giải lại cho rõ. Tôi gọi hôn trầm tức người đời gọi là vô ký. Tôi gọi tán loạn tức người đời gọi là vọng tưởng. Cần biết định thì phần nhiều hay sanh vô ký, tuệ thì phần nhiều hay sanh vọng tưởng. Định tuy hay trị vọng tưởng mà trở lại sanh vô ký. Tuệ tuy hay trị vô ký mà trở lại sanh vọng tưởng. Ngày nay thực tập công phu, chỉ cần định có tuệ, cốt đừng nhập cái định hôn trầm vô ký; chỉ cần tuệ có định, cốt đừng nhập cái tuệ tán loạn vọng tưởng. Là hai mà chẳng hai, định tuệ dung hòa, thì công phu mới tăng trưởng.

Đại sư Trí Giả ở núi Thiên Thai truyền diệu pháp Chỉ Quán. Nghĩa là chỉ mà quán đó, tịnh mà minh đó, khiến động mà được tịnh, tịnh mà được sáng. Sáng thì chiếu, chiếu thì một vậy. Đây thật là chỉ đường giác cho quần sanh. Cốt nên biết, tôi nói pháp định tuệ là Đại sư nói pháp Chỉ Quán, đâu cần gì cầu Phật pháp khác.

Người khi rời bỏ cuộc đời, nếu có công phu định tuệ, ắt được lên thế giới Cực Lạc. Diệu pháp này lúc bình nhật cần phải tập cho thuần thục. Bậc minh triết nói : “Người đời trọn ngày hôn tán, khi sắp chết làm sao được định tuệ. Người học đạo trọn ngày định tuệ, khi sắp chết đâu thể hôn tán”. Nếu đợi khát nước mới đào giếng thì đâu cứu được !

*

Hạ thủ công phu tu thiền rất khẩn yếu ở một chữ Thiết. Chữ Thiết rất có sức mạnh. Nếu chẳng Thiết thì lười biếng sanh. Lười biếng sanh thì buông lung phóng ý không chỗ nào chẳng đến. Nếu thật dụng tâm chân thiết thì buông lung lười biếng do đâu được sanh. Nên biết, một chữ Thiết nếu hay dán dính trên thân thì khỏi lo tâm sanh tử chẳng phá, khỏi lo chẳng đến địa vị Phật Tổ. Bỏ chữ Thiết này riêng cầu Phật pháp, đều là si cuồng ngoại đạo.

Một chữ Thiết là lời rất thân thiết, như dụng tâm thân thiết thì không kẽ hở, do đó các thứ tà ma không thể xâm nhập. Như dụng tâm thân thiết tự nhiên không sanh suy tính, có niệm không gián cách thì chẳng rơi vào ngoại đạo.

Một chữ Thiết đâu những lìa lỗi, liền đó vượt khỏi ba tánh thiện, ác, vô ký. Một câu thoại đầu dụng tâm thậm thiết thì không nghĩ thiện, dụng tâm thậm thiết thì không nghĩ ác, dụng tâm thậm thiết thì không rơi vào vô ký. Thoại đầu thiết thì không trạo cử, thoại đầu thiết thì không hôn trầm. Chỉ cốt chánh giác hiện tiền thì các ma tự lui, chánh giác phi thiết chẳng sanh.

*

Hạ thủ công phu tu thiền chẳng sợ chết không được sống, chỉ sợ sống không được chết. Nếu thật nghi tình kết tụ ở một chỗ, cảnh động chẳng đợi đuổi mà tự đi, vọng tâm chẳng đợi tịnh mà tự tịnh, sáu căn ở ngoài cửa tự nhiên rỗng suốt hết, ra dấu liền đến, gọi lên liền đáp, lo gì chẳng sống?

*

Hạ thủ công phu tu thiền cốt phải ngay thẳng cao vót, chẳng gần nhân tình. Nếu đáp ứng theo tình cảm thì thực hành công phu chẳng tiến. Không những chẳng tiến mà lâu ngày chầy tháng sẽ trôi theo thế tục, rất là đáng tiếc ! Ví như chính mình bận việc thì đâu thể có công coi sóc việc người. Ngay thẳng cao vót chính là Chánh đẳng Chánh giác.

*

Hạ thủ công phu tu thiền điều thứ nhất là Chánh giác. Chánh giác là phút giây nào cũng chiếu soi lại cái linh minh của chính mình, không thể buông nó chạy đi. Nếu cái linh minh đi rồi, thì thân này chỉ là cái thây chết có hơi thở. Lại là hôn trầm không niệm, rơi vào ngoan không khô lặng. Tuy là vận dụng công phu khổ nhọc mà không có mảy may lợi ích.

Hạ thủ công phu tu thiền tu tập được tiến lên, như người gánh nặng ngàn cân, buông cũng chẳng rớt, giống như người tìm một vật quan trọng bị rơi mất, nếu tìm không được thề chẳng thôi nghỉ. Trong đó chỉ không nên sanh chấp trước tính toán. Nếu chấp thì thành bệnh, trước thì thành ma, tính toán thì thành ngoại đạo. Thật được nhất tâm nhất ý, giống hệt người tìm vật đã mất thì ba thứ (chấp, trước và tính toán) vỡ tan không còn dính mắc. Nên nói, sanh tâm động niệm đều trái với pháp thể.

*

Hạ thủ công phu tu thiền khi đề khởi thoại đầu cốt phải rõ ràng sáng sủa, giống in như con mèo rình chụp chuột. Người xưa nói : “Chẳng chém được đứa mọi thề không thôi”. Nếu chẳng vậy, là ngồi trong nhà quỉ, mờ mờ mịt mịt, qua rồi một đời, có chỗ nào lợi ích ?

Mèo rình chuột mở tròn đôi mắt, bốn chân chực sẵn, chỉ cốt chụp chuột đến miệng mới được, dù có gà chó ở bên cạnh đều không để mắt ngó. Người tham thiền cũng như thế, chỉ là chăm chú cốt suốt lý này, dù có tám cảnh xen lẫn ở trước cũng không để mắt nhìn, vừa có niệm khác, chẳng những không bắt được chuột, mà mèo cũng chạy mất.

*

Hạ thủ công phu tu thiền không nên ở trên công án của tiền nhân mà suy nghĩ, thêm sự giải thích. Dù mỗi mỗi hiểu qua cùng với chính mình cũng không dính dáng gì. Cần yếu biết mỗi câu mỗi lời của tiền nhân như đống lửa lớn, gần nó không được, xúc chạm cũng không được, huống là ngồi nằm trong ấy, lại ở trong đó phân lớn phân nhỏ, nói trên nói dưới, thì có chỗ nào lợi ích ?

Việc ấy không cùng giáo lý hợp, do đó những vị tu tập Đại thừa đã lâu, vẫn không hiểu không biết, huống là các hàng Tiểu thừa Thanh văn Duyên giác? Bậc Tam hiền Thập thánh đâu không thông giáo lý, mà nghe nói một việc này, Tam thừa còn tan mật, Thập thánh phải kinh hồn. Bậc Bồ-tát Đẳng giác thuyết pháp như mây như mưa, độ chúng sanh không thể nghĩ bàn vào vô sanh pháp nhẫn, vẫn gọi là sở tri ngu, cùng đạo còn trái, huống là những bậc khác ? Bởi vì việc này từ chỗ phàm phu chóng đồng Phật thể, người thật khó tin. Người tin được là hàng pháp khí, người không tin chẳng phải pháp khí. Những người tu hành muốn vào Tông thừa này ắt từ tin mà vào.

Một chữ Tin có cạn có sâu, có tà có chánh, không thể không biện biệt. Phàm vào pháp môn có ai mà nói chẳng tin. Nhưng, chỉ tin pháp môn mà không tin tâm mình là tin cạn. Các hạng Bồ-tát Đại thừa còn chẳng đủ lòng tin, như kinh Hoa Nghiêm sớ nói : “Thấy có người hay nói pháp, có chúng nghe pháp, còn chưa vào cửa tin”. Như nói tức tâm tức Phật thì ai bảo là chẳng tin. Song, nếu có người hỏi : “Ông là Phật chăng ?” liền bị phá dẹp không thể thừa đương. Kinh Pháp Hoa nói : “Tột nghĩ chung suy xét, không thể lường trí Phật”. Sở dĩ có tâm tột nghĩ xét, là do lòng tin chẳng đủ vậy. Có đủ lòng tin này là tin sâu.

Tin tâm mình tức là Phật, gọi là tin chánh. Ngoài tâm chấp pháp, gọi là tin tà. Tin tức tâm là Phật, cốt phải thấu rõ tâm mình, bước đi trên đất thật ấy đến chỗ chẳng nghi, mới gọi là tin chánh. Mù mờ ngờ vực bướng nói tâm tức là Phật mà thật không biết tự tâm, tức là tin tà.

Người xưa hái rau gánh củi vẫn định, cuốc đất cày ruộng vẫn định, khi làm công kia việc nọ vẫn định, đâu phải ngồi lâu kềm vững khiến tâm chẳng khởi, nhiên hậu mới là định. Nếu như thế, gọi là định tà, không phải chánh ý của Phật pháp.

Lục Tổ bảo : “Na-già thường tại định, không lúc nào chẳng định”. Phải thấy tột bản thể mới tương ưng với định này. Đức Thích-ca từ Đâu Suất hạ sanh, giáng thần trong hoàng cung, vào núi tuyết, thấy sao mai mọc, mở đường dạy chúng, chưa từng ra khỏi định này. Nếu chẳng vậy, đã bị cảnh động lôi cuốn, đâu gọi là định. Trong cảnh động tìm chỗ khởi không có, trong cảnh tịnh tìm chỗ khởi cũng chẳng có. Cảnh động đã không chỗ khởi thì lấy cái gì làm cảnh ? Hội được ý này thảy đều là một thể định, đầy dẫy tràn trề, không dư không che đậy.

*

Hạ thủ công phu tu thiền không nên dính mắc thế pháp. Trong Phật pháp còn không dính một điểm, huống là thế pháp. Nếu thoại đầu hiện tiền chân chánh thì dẫm xuống nước chẳng thấy lạnh, chạm vào lửa chẳng biết nóng, trong rừng gai chông nằm ngang đi thẳng chẳng thấy chướng ngại. Được vậy, mới có thể ở trong thế pháp đi ngang chạy dọc. Bằng không, hoàn toàn bị cảnh duyên lôi cuốn, dù muốn được công phu thành một khối, trải nhiều năm cũng không thể được.

*

Hạ thủ công phu tu thiền không nên tầm văn trục cú ghi lời nhớ câu, không những vô ích mà còn làm chướng ngại công phu. Nắm công phu chân thật mà trở thành duyên lự.

Hạ thủ công phu tu thiền rất sợ so sánh, đem tâm tính toán, cùng đạo trái xa, dù thực hành đến Phật Di Lặc ra đời vẫn không dính dáng. Nếu là người nguyện phát nghi tình, dù sự vật đầy bít hư không vẫn không biết có danh tự hư không, như ngồi trong núi bạc vách sắt, chỉ cầu được con đường sống. Nếu không được con đường sống, thì làm sao được an ổn. Chỉ thực hành công phu như thế, thời tiết đến tự nhiên có thành.

Gần đây, có một số tà sư dạy người, không do cố gắng dụng công. Lại nói : “Cổ nhân chưa từng dụng công phu”. Lời nói này rất độc, làm mê lầm kẻ hậu học, sẽ vào địa ngục vậy.

Thiền sư Đại Nghĩa làm bài minh tọa thiền nói :

Chớ tin rằng đạo chẳng cần tham,

Thánh trước chăm chăm làm chỉ nam.

Dù rằng gác cũ nhàn điền địa,

Một phen gầy dựng thật gian nan.

Nếu chẳng cần tham cứu mà bảo được lý, đây là Di Lặc trời sanh, Thích-ca tự nhiên. Bọn này thật là đáng thương xót vậy. Bởi vì tự họ chẳng hiểu tham cứu, hoặc thấy người xưa một hỏi một đáp liền lãnh ngộ, bèn đem cái hiểu biết của tình thức để giải thích, là dối gạt người. Hoặc bị cơn bệnh ngặt, liền kêu la om sòm, những cái hiểu lúc đương thời đem dùng không được. Hoặc đến lúc sắp chết, như con cua bỏ vào chảo nước sôi, tay chân rối loạn, bấây giờ hối hận chẳng kịp.

Thiền sư Hoàng Bá nói :

Vượt khỏi trần lao việc chẳng thường,

Đầu dây nắm chặt giữ lập trường.

Chẳng phải một phen xương lạnh buốt,

Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương.

Lời này thật rất thân thiết. Nếu đem bài kệ này luôn luôn cảnh sách công phu thì tự nhiên thực hành được tiến bộ. Như người đi con đường trăm dặm, đi một bước là gần một bước, không đi thì đứng nguyên chỗ cũ. Dù người ấy nói được sự nghiệp ở quê hương rõ ràng rành rẽ, trọn không đến nhà, làm sao được việc lớn ấy.

*

Hạ thủ công phu tu thiền rất sợ suy nghĩ làm thơ, làm kệ, làm văn phú v.v… Nếu làm thành thi kệ thì gọi thi nhân, làm văn phú giỏi thì gọi văn nhân, cùng với tham thiền toàn không dính líu.

*

Hạ thủ công phu tu thiền, gặp phải cảnh duyên thuận nghịch, chỗ làm người động niệm, liền phải biết để phá. Chỉ đề khởi thoại đầu không cho cảnh duyên xoay chuyển. Có người mới vừa được thành, liền nói: “Chẳng cần chống”. Ba chữ này làm lầm người, học giả không thể không xét.

*

Hạ thủ công phu tu thiền, nghi tình chưa phá như đến hố sâu, như đi trên băng, mảy may mất niệm là tan thân mất mạng. Vì nghi tình chưa phá thì đại lý không sáng, một hơi thở không trở lại thì đời này còn bị thân trung ấm lôi kéo, chưa khỏi theo nghiệp thức mà đi, sửa đầu đổi mặt chẳng hiểu chẳng biết. Bởi thế, nên trên nghi lại thêm nghi, đề khởi thoại đầu, chưa sáng quyết định phải sáng, chưa phá quyết định phải phá. Ví như bắt kẻ trộm, cần phải thấy nó.

*

Hạ thủ công phu tu thiền cần phải Khẩn, cần phải Chánh, cần phải Miên Mật, cần phải Dung Hoát. Thế nào là Khẩn ? Mạng người tại hơi thở, đại sự chưa sáng, một hơi thở không trở lại, đường trước mờ mờ chưa biết về đâu, thì không thể chẳng Khẩn. Cổ Đức nói : “Như dây gai thấm nước, một bước gấp một bước”. Thế nào là Chánh ? Người học phải đủ con mắt lựa pháp, một ngàn bảy trăm Tổ sư đều là mô phạm, nếu sai một hào ly thì vào đường tà. Kinh nói : “Chỉ đây một việc thật, còn hai thì chẳng chân”. Thế nào là Miên Mật ? Lông mày cùng hư không kết chặt, mũi kim găm chẳng lủng, nước rưới chẳng ướt, chẳng cho một tí kẽ hở. Nếu có một tí kẽ hở thì ma cảnh theo kẽ hở chui vào. Cổ Đức nói : “Một phút chẳng hiện có, giống như người chết”. Thế nào là Dung Hoát ? Thế giới rộng một trượng thì gương xưa (cổ kính) rộng một trượng, gương xưa rộng một trượng thì lò lửa rộng một trượng, quyết định không cố chấp ở một chỗ. Nắm chặt đầu rắn chết, cũng không kẹt ở hai đầu, mênh mông lênh láng. Cổ đức nói : “Tròn đồng thái hư, không thiếu không dư ”. Thật đến chỗ Dung Hoát thì trong không thấy có thân tâm, ngoài không thấy có thế giới, mới được lối vào. Bốn thứ này chẳng phải có thứ lớp trước sau, cần phải đồng hành.

Khẩn mà không chánh thì uổng dụng công. Chánh mà không Khẩn thì không thể vào. Đã vào cần phải Miên Mật mới được tương ưng. Đã tương ưng phải Dung Hoát mới làm hóa cảnh.

*

Hạ thủ công phu tu thiền không được có một mảy niệm khác. Đi đứng ngồi nằm luôn luôn đề khởi câu thoại đầu đã tham. Phát khởi nghi tình, hẳn phải giải quyết cái ấy cho xong xuôi. Nếu có một mảy may niệm khác, người xưa gọi đó là tạp độc nhập tâm, đâu những hại thân mạng, mà nó hại cả tuệ mạng. Người học không thể không cẩn thận.

Tôi nói niệm khác không phải chỉ pháp thế gian, trừ ngoài câu thoại đầu tâm đang tham cứu, tất cả việc tốt trong Phật pháp đều gọi là niệm khác. Lại, không những việc trong Phật pháp, mà ở trên tâm thể sanh thủ, xả, chấp, buông đều là niệm khác.

*

Hạ thủ công phu tu thiền đối với tất cả sự vật trên đời, nào là đáng yêu đáng ghét đáng mừng đáng buồn, các thứ tình cảm suy nghĩ thảy đều dẹp hết. Chỉ còn cái chánh giác của ta, chẳng đoái hoài những việc khác. Lại, cốt yếu làm một người vô dụng, mặc tình người đến bắt bẻ ta, ta chỉ làm kẻ vô tri vô lý; mặc tình người đến cười chê ta, ta cũng chỉ làm kẻ vô tri vô lý. Ta cốt soi xét cái chánh giác chính mình, không dám biếng trễ để qua thời giờ.

*

Hạ thủ công phu tu thiền, khi thực hành đa số người nói : “Thực hành không tiến”. Chính chỗ thực hành không tiến này, lại gắng thực hành. Như người không biết đường phải cố gắng tìm đường. Không thể nói : “Tìm đường không được, nên bỏ việc tìm đường”. Nếu tìm đường đã được, quý ở chỗ phải đi, đi thẳng đến nhà mới thôi. Không nên ở trên đường dừng nghỉ không đi, thì trọn không có ngày đến nhà.

*

Hạ thủ công phu tu thiền rất sợ cái tâm lanh lợi, tâm lanh lợi là thứ thuốc kỵ. Người phạm chút ít thuốc kỵ này, thì dù có chân dược hiện tiền cũng không thể cứu được. Nếu thật là người tham thiền thì có mắt như mù, có tai như điếc, khi tâm niệm vừa khởi in như vin vào núi bạc vách sắt. Người được vậy thì công phu mới được tương ưng.

*

Hạ thủ công phu tu thiền chẳng sợ sai lầm, mà chỉ sợ không biết sai lầm. Mặc dù hành ở chỗ sai lầm, nếu có một niệm biết sai lầm, bèn là nền tảng thành Phật thành Tổ, là con đường ra khỏi sanh tử, là món đồ sắc bén phá lưới ma. Phật Thích-ca trong pháp ngoại đạo mỗi mỗi đều chứng qua, chỉ không chịu ngồi trong hang ổ ấy. Dùng bốn chữ biết sai liền bỏ là từ phàm phu tiến đến quả vị Phật. Ý này đâu riêng trong pháp xuất thế, ở trong pháp thế gian nếu có chỗ sai lầm, chỉ cần dùng một câu biết sai liền bỏ là được thành người tốt đẹp ở thế gian. Nếu kẻ cố ôm cứng chỗ sai lầm cho là phải, không chịu biết sai, dù có Phật sống hiện ở trước, cũng không thể nào cứu được người ấy.

Hạ thủ công phu tu thiền không nên tránh chỗ ồn tìm chỗ vắng, lim dim nhắm mắt, ngồi trong hang quỉ cho là kế sanh sống. Người xưa nói : “Ngồi dưới núi tối, chìm trong nước chết thì cứu được việc gì ?” Chỉ cần ngay trong cảnh duyên thực hành kỳ được, mới là chỗ đắc lực. Một câu thoại đầu để trên trán, đi đứng nằm ngồi, mặc y, ăn cơm, tiếp người đợi khách cần yếu thấu suốt được chỗ tột cùng của một câu thoại đầu. Một sáng, khi rửa mặt rờ được chót mũi, mới biết lâu nay nó rất gần, thế là được tỉnh lực. Thật được thế rồi, mới hoàn toàn không uổng phí công phu.

*

Hạ thủ công phu tu thiền rất sợ nhận thức thần làm Phật sự. Hoặc nhướng mày nheo mắt, lắc đầu xoay mặt cho là có ít nhiều kỳ đặc. Nếu bám vào thức thần để làm việc, chắc chắn sẽ rơi vào ngoại đạo không nghi. Quả là chạy trên đường lạc lầm, rất đáng tiếc vậy !

*

Hạ thủ công phu tu thiền chỉ tại dụng tâm trên một công án, không nên trên tất cả công án giải hội. Nếu giải được, trọn là giải hội, không phải là ngộ. Kinh Pháp Hoa nói : “Pháp ấy không phải chỗ suy nghĩ phân biệt hay đến được”. Kinh Viên Giác nói : “Lấy suy nghĩ làm tâm, xét lường cảnh giới Viên giác của Như Lai, như đem lửa đom đóm đốt núi Tu Di, trọn không thể được”. Ngài Động Sơn nói : “Nghĩ đem tâm ý học huyền tông (Thiền tông), giống hệt đi hướng tây mà mặt hướng đông”. Phàm người đào bới công án, cần phải dưới da có máu, biết hổ thẹn mới được.

Hạ thủ công phu tu thiền rất sợ rơi vào Không. Song thoại đầu hiện tiền làm sao Không được ? Đây chỉ sợ rơi vào Không, mà chẳng được Không, huống là được thoại đầu hiện tiền ?

http://thientongvietnam.net/kinhsach-thike/dirs/thientongtrucchi/unicode/a.html

?

Saturday, May 22, 2010

Chơn Tâm Sờ Sờ

Nói đến tâm hay cái BIẾT, thì hẳn là chúng ta ai mà không có? Dù kẻ thông minh hay người ngu độn, kẻ câm điếc hay mù lòa, tàn tật cả đến kẻ say rượu, người điên cuồng… đã sinh ra đời ai ai cũng đều có đủ như nhau. Nếu không thì đã thành khúc cây hay hòn đá còn đâu. Vừa mới sinh ra, thì “BIẾT OA OA” khóc ré lên rồi lúc khát sữa thì BIẾT đòi bú. Tiếp theo BIẾT bò, BIẾT đi, BIẾT nói. Hơi lớn lên thì BIẾT buồn, BIẾT giận, BIẾT yêu, BIẾT ghét, BIẾT hơn, BIẾT thua … Cho đến trong cơn “thập tử nhứt sanh”, thì cũng vẫn còn BIẾT sợ, BIẾT trối trăn.

Có thể nói, từ lúc mới sinh ra cho đến khi sắp chết, cái BIẾT này nó chưa từng thiếu vắng với chúng ta bao giờ. Cho dù anh là người Việt, người Lào, người Miên, người Trung Hoa, người Pháp, người Anh, hay người Mỹ… hoặc anh là người Phật giáo, người Thiên Chúa giáo, người Hồi giáo, hay người Ấn Độ giáo… cái BIẾT này cũng vẫn có đủ như nhau, không phân biệt màu da chủng tộc, không phân chia giai cấp tôn giáo hay đảng phái. Vậy thì tại sao chúng ta ai ai cũng đang lo chạy đuổi tìm HIỂU BIẾT? Kẽ hở đó là ở tại chỗ nào?
Ồ! Có gì là lạ lùng đâu, chỉ vì chúng ta ai ai cũng cứ lo nhìn theo những làn sóng nhấp nhô lên xuống hấp dẫn kia, rồi mặc tình lặn hụp mệt nhoài trong đó. Cứ bị hết LƯỢN SÓNG BIẾT này tiếp nối LƯỢN SÓNG BIẾT kia lôi kéo mà chạy mãi không phút giây dừng nghỉ. Rồi có khi cơn gió tạm yên, những lượn sóng nhẹ dừng đôi chút, thì chúng ta liền chới với, quơ tay tìm kiếm lại, mà quên mất rằng “NƯỚC VẪN CÒN ĐÂY!”
Quả thực tự đáng thương cho chúng ta vô cùng. Anh hãy nhìn kỹ lại xem, nếu bảo rằng chúng ta không có nó, thì khi gió thổi “CẢM NGHE MÁT RƯỢI” làn da đó là gì? Ngay khi này chúng ta có suy nghĩ chi đâu? Nhưng nó vẫn hiện hữu ra đó không ai ngăn cản được. Còn kia, anh đang đi bình thản, bất chợt nghe tiếng gọi tên mình, tức liền quay đầu ngó lại, đâu có suy nghĩ cái gì phải không? Vậy thì đã có CÁI GÌ TRONG ĐÓ mà khiến ra như thế? Và đây nữa, khi nghe tiếng bảng đánh lên, cũng nào có suy nghĩ gì đâu, vậy thì sao lại BIẾT mặc áo đi ăn cơm? Có cái gì kỳ đặc trong đó?
Phải nói rằng, lâu nay chúng ta đã sống mà chưa từng BIẾT sống chi cả. Chỉ sống bằng cái sanh diệt chập chờn không đâu, sống bằng những cái bóng dáng “Ở NƠI NÀO”, “CỦA THUỞ ẤY” mà chưa từng bao giờ sống thực với cái “ĐANG LÀ”! “CÁI HIỆN TIỀN ĐANG SÁNG RỰC” nơi ta. Đó là chỗ người xưa bảo, chỉ sống với vọng thức mà bỏ quên chơn thức. Tuy nhiên, từ trước đến giờ chúng ta đã bị những danh từ nó che mờ quá nhiều mà không thông được nghĩa thật. Nghe nói vọng thức, chơn thức, thức này thức nọ, sáu thức, tám thức… rồi cứ lo định nghĩ những danh từ đó thôi, chứ nào nhận thấy đâu là sự thật.
Giờ đây, chúng ta hãy gạt qua hết những danh từ phiền phức đó đi, không nói chơn nói vọng gì nữa cả, mà chỉ tóm lại có hai phần đơn giản cho dễ nhận:
- Một là phần nổi, tức phần biểu hiện ra bên ngoài mà chúng ta hằng sống bấy lâu nay. Phần này năng lực của nó rất là hạn cuộc, nhỏ nhoi không đáng kể gì, nhưng chính chúng ta lại lấy đó làm lẽ sống quan trọng nhất của đời mình.
- Hai là phần tiềm ẩn bên trong chính đây là “NGUỒN SỐNG VÔ BIÊN”, là năng lực dự trữ không cùng tận, mà trái lại chúng ta vẫn hằng bỏ quên, chưa từng có giây phút nào nhớ lại. Chỗ này chúng ta xin đơn cử một thí dụ; như điện cũng hai phần, phần biểu hiện ra ngoài và phần dự trữ vô biên trong vũ trụ. Chúng ta thường chỉ BIẾT điện ở bóng đèn, ở quạt máy, ở radio, ở tivi, ở tủ lạnh… mà ít ai BIẾT đến nguồn điện tràn đầy trong vũ trụ vô biên kia. Vì vậy đối với chúng ta, khi mất điện thì chỉ lo chạy đi tìm điện. Còn đối với các nhà khoa học thì họ BIẾT được nguồn điện này, nên họ BIẾT điện luôn luôn sẵn có ở khắp nơi và họ nghiên cứu tìm nhiều phương tiện phát ra điện. Xa hơn nữa, họ còn BIẾT khai thác nguồn điện này thành những năng lực phi thường mà ít ai ngờ tới được. Đó là những nhà khoa học vật chất.
Cũng vậy, chúng ta vì chỉ BIẾt sống với phần thức biểu hiện bên ngoài, mà không hề BIẾT đến phần thức thuộc về NĂNG LỰC LUÔN TIỀM ẨN BÊN TRONG, nên sự hiểu BIẾT của chúng ta cũng rất là hạn chế, và chúng ta luôn luôn phập phồng lo sợ mất nó, thiếu nó. Đó là lý do mình cứ SĂN TÌM HIỂU BIẾT không thôi. Còn đối với Chư Tổ, các Ngài như những “NHÀ KHOA HỌC TÂM LINH” phát hiện và sống được với “NGUỒN SỐNG” bên trong của thức, nên các Ngài có những hiểu BIẾT vượt xa cái hiểu BIẾT tầm thường của chúng ta, đồng thời có sức diệu dụng không thể nghĩ bàn. Các Ngài cũng là người, các Ngài đã làm được việc đó, chúng ta cũng là người vậy thì tại sao chúng ta không thể làm được? Sao chúng ta không là những nhà khoa học tâm linh, để khai thác NGUỒN NĂNG LỰC DỰ TRỮ VÔ BIÊN đang tiềm ẩn ở phần thức bên trong kia? Bởi vậy Chư Tổ hết lòng thương xót dùng đủ mọi phương tiện hay khéo để đánh thức cho ta giựt mình tỉnh lại. Và đây, chúng ta hãy lặng lòng mà nhìn lại xem các nhà khoa học tâm linh ấy hé mở cho mình thấy “NGUỒN SỐNG TRÀN ĐẦY VÔ BIÊN” đó?
Ngài Linh Mặc khi đến với tổ Thạch Đầu, duyên không khế hợp liền từ giã ra đi. Tổ Thạch Đầu tiễn Sư ra đến cổng, liền gọi to: Xà lê! Sư liền quay đầu ngó lại, thì liền bị Tổ giáng thêm một câu: - Từ sinh đến tử chỉ là cái ấy, xoay đầu chuyển não làm gì? Tức thì ngay đó Sư liền thức tỉnh “NÓ VẪN SẴN NƠI ĐÂY”. Nếu không, thì làm sao “BIẾT XOAY ĐẦU” ngó lại?
Hoàng Sơn Cốc đến nương theo ngài Hối Đường và xin chỉ cho chỗ thẳng tắt. Hối Đường bảo: Như Khổng Tử nói “Này các trò, cho là ta giấu giếm ư? Ta không có giấu giếm gì các trò cả.” Thái Sử căn cứ vào đâu mà lý luận? Ông suy nghĩ để đáp, thì Hối Đường liền bảo: Chẳng đúng! Chẳng đúng! Ông càng mê muội. Một hôm ông theo hầu Hối Đường dạo núi, nhằm lúc hoa quế rụng đầy đất. Hối Đường hỏi: Ông có ngửi thấy mùi thơm hoa quế chăng? Ông đáp: Dạ ngửi thấy. Hối Đường liền chọc thẳng một câu: Ta không có giấu giếm gì ông cả. Ngay đó ông liền sống dậy với cái “ĐANG HIỆN TIỀN MUÔN THUỞ CÒN ĐÂY”. Nếu quả thực nó đang thiếu vắng, thì cái gì “NGỬI BIẾT” mùi thơm hoa quế?
Trở lại Lục Tổ, khi Ngài nghe hai ông tăng cãi nhau về phướn động và gió động, Tổ liền bảo: Tâm nhơn giả động: Chúng ta có ai thấy được ý Tổ hay chưa? Ông Tăng chỉ lo đuổi theo cái bóng bên ngoài mà thực tình đã quên mất cái gì đang “SỜ SỜ BIẾT ĐỘNG” ở đây. Đó mới là chỗ cốt yếu của vấn đề, nếu không có nó thì gió và phướn cũng thành vô nghĩa vậy thôi. Do đó khi nghe câu này, hai ông tăng liền giựt mình BIẾT đây không phải là hạng người tầm thường, mới liền vào báo cho ngài Ấn Tông hay.
Qua đến ngài Đạo Ngộ với Sùng Tín sự thật này hiển bày lồ lộ trong tất cả mọi cử chỉ oai nghi. Sùng Tín hầu ngài Đạo Ngộ đã lâu mà không thấy chỉ dạy gì, một hôm lòng tha thiết quá mức không kềm được nữa, Sư bèn đến thưa với thầy rằng: Con từ khi vào cho đến nay, chưa được thầy chỉ dạy gì về tâm yếu cả. Ngài Đạo Ngộ liền đáp một cách bất ngờ: Ta chưa từng chẳng chỉ dạy cho ông. Sùng Tín sửng sốt không hiểu, thưa lại: Bạch Thầy đã chỉ dạy cho con ở lúc nào? Ngài Đạo Ngộ liền bảo ngay: Ông bưng cơm thì ta tiếp, ông dâng trà thì ta nhận, ông xá lui thì ta gật đầu, có lúc nào không chỉ dạy cho ông đâu? Tuy nhiên Sùng Tín chưa nhận ra, cúi đầu trầm ngâm suy nghĩ. Đạo Ngộ liền bồi thêm một câu: Nhận thì ngay đó liền nhận, suy nghĩ liền sai. Tức thì Sùng Tín ngay đó liền nhận ra cái “SỜ SỜ LUÔN CÓ MẶT Ở BÊN MÌNH”, hết một đời lang thang tìm kiếm. Thực sự là vậy, nếu không có nó, thì cái gì “BIẾT LÀM” những chuyện trên đây? Đúng như Chư Tổ thường quở trách chúng ta là “ĐANG LẶN HỤP Ở TRONG NƯỚC MÀ GIƠ TAY ĐÒI NƯỚC”, không oan ức chút nào!
Đến trường hợp ngài Động Sơn Thủ Sơ ở nơi Vân Môn, thì cái BIẾT này bày rõ trong khoảng hỏi đáp mà không hay. Sư đến, Vân Môn hỏi: Ở đâu đến? Sư thưa: Ở Tra Độ. Vân Môn hỏi thêm: - Mùa hạ rồi ở đâu? Sư đáp: Tại chùa Báo Từ ở Hồ Nam. Vân Môn lại hỏi tiếp: Rời nơi đó lúc nào? Sư đáp: Ngày 25 tháng 8. Tiếp theo thì bất ngờ Vân Môn bảo: Tha cho ông ba gậy! Sư cũng quá sức ngạc nhiên không hiểu, ôm thắc mắc lui về phòng mà nghi mãi khiến trằn trọc suốt đêm. Sáng hôm sau vội liền đến thưa hỏi: Hôm qua nhờ ơn Hòa Thượng tha cho ba gậy, chẳng BIẾT con lỗi tại chỗ nào? Vân Môn liền bảo ngay: Cái túi cơm! Giang Tây Hồ Nam liền thế ấy! Ngay đó Sư liền đại ngộ.
Chúng ta có ai thấy được Sư ngộ cái gì hay chưa? Và ba gậy kia là đáng ăn hay không đáng ăn? Chính đây là chỗ ít ai vượt qua nổi. Ban đầu mỗi câu hỏi đều đáp rõ ràng rành rẽ, nếu không có nó thì cái gì “BIẾT ĐÁP” trôi chảy như trên? Nhưng tại sao khi vừa nghe tiếng “BA GẬY” liền mờ mịt tối tăm thế ấy? Có phải là đã “THEO LỜI MÀ SANH CHUYỂN” hay không? Đến nỗi trải qua một đêm dài, trằn trọc bất an không sao ngủ được, cứ phải thắc mắc tự hỏi hoài không BIẾT mình lỗi ở chỗ nào mà phải ăn gậy? Thì sáng ra vội vàng đến thưa hỏi lại, qua một câu đánh thức của ngài Vân Môn, Sự chợt liền tỉnh ngay: quả thực là dù ở Mã Tổ hay Thạch Đầu (Giang Tây là chỗ Mã Tổ, Hồ Nam là chỗ Thạch Đầu) cũng chỉ là MỘT CÁI ẤY THÔI, chớ có thêm cái gì nữa đâu. Tức thì ngay đó nắm tay cùng chư Tổ đồng đi vậy! Một kiếp phong trần lang thang tìm kiếm giờ không phải nhọc gì mà nó vẫn Ở SẴN NGAY ĐÂY. Còn gì vui sướng hơn nữa!
Còn ngài Đức Sơn ở Long Đàm thì cái này nó hiện ở nơi đâu? Đức Sơn hầu ngài Sùng Tín quá khuya, Sùng Tín bảo: Sao không xuống đi? Sư vừa đi ra cửa, liền trở vào thưa: Bên ngoài tối đen. Sùng Tín đốt đèn đưa cho Sư. Sư vừa đưa tay đón nhận thì Sùng Tín liền thổi tắt.
Mới xem qua tưởng chừng như thầy trò đùa nhau, mà thực đã bày rõ ràng cái “ĐANG HIỆN SẴN CÓ”, không thì cái gì “BIẾT ĐƯA TAY” ra đón nhận? Ngay đó quá đầy đủ rồi còn nhận lấy cái gì thêm nữa cho dư? Bởi thế ngọn đèn Sùng Tín vừa thổi tắt, thì ngọn đèn Đức Sơn tự bừng sáng lên từ thuở nào rồi! Đó mới là ánh sáng chân thực muôn đời không mất, còn nhận lấy từ bên ngoài vào thì có lúc phải đành chịu tắt để tối như xưa. Vậy thử hỏi, trong chúng ta đây có ai đã chịu thắp sáng lên chưa? Hay vẫn cứ đưa tay tìm bắt bên ngoài mãi mãi!
Cho nên, khi đã rõ rồi thì diệu dụng của nó luôn luôn tràn ngập khắp nơi, cần dùng liền dùng, suốt thông không còn gì ngăn ngại. Chẳng vậy thì, dù đối diện hiện tiền mà vẫn tối tăm mờ mịt.
Tổ Quy Sơn có lần muốn thử xem ngài Ngưỡng Sơn hiện dụng như thế nào, nhân đang đi hái trà, liền bảo: Cả ngày hái trà chỉ nghe tiếng con mà chẳng thấy hình con, vậy con hãy thử hiện hình cho thầy xem! Ngưỡng Sơn liền “RUNG CÂY TRÀ”. Quy Sơn bảo: Con chỉ được “DỤNG” mà không được “THỂ”. Ngưỡng Sơn thưa: Hòa thượng thì thế nào? Quy Sơn liền im lặng. Ngưỡng Sơn nói: Hòa thượng chỉ được “THỂ” mà không được “DỤNG”. Đây quả thực thầy trò Quy Ngưỡng khéo bày thể dụng. Tuy nhiên như thế, cái “DỤNG” thì dễ thấy rồi, còn cái “THỂ” thì sao? Nếu nhằm chỗ im lặng của Quy Sơn mà hiểu cái “THỂ”, thì quả là chết chìm trong không vậy. Đâu hiểu rằng, dù nói hay im cũng chỉ là tướng sinh diệt đấy thôi, mà phải nhìn thấu TRONG CHỖ IM LẶNG KIA rất có “Ý MẦU”!
Điểm nổi bật rõ ràng nhất cho chúng ta thấy là Tổ Huệ Khả một hôm đến trình với Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma: - Con bây giờ đã dứt bặt hết các duyên. Sơ Tổ gạn bảo: Có rơi vào đoạn diệt chăng? Tổ Huệ Khả đáp quả quyết: Chẳng rơi vào đoạn diệt. Sơ Tổ gạn thêm: Làm sao BIẾT chẳng rơi vào đoạn diệt? Tổ Huệ Khả liền thưa ngay không chút suy nghĩ: RÕ RÀNG THƯỜNG BIẾT, nói không thể đến. Sơ Tổ ấn khả: ĐÂY LÀ CHỖ TÂM THỂ CỦA CHƯ PHẬT ĐÃ TRUYỀN, trọn chớ có nghi ngờ!
Đúng thực là thế, bao nhiêu những lượn sóng sinh diệt nó có thể dừng lặng, còn cái nầy là cái “THỂ HIỆN HỮU MUÔN ĐỜi” thì đâu lẽ nào đoạn diệt theo nó. Người đã thực sự sống trong đây thì rõ ràng không còn gì nghi nữa. Chỉ những ai còn đang đuổi theo chụp bắt những bóng dáng sanh diệt kia mới sinh nghi thế nầy thế nọ. Riêng có một điều tối quan trọng là “NÓI KHÔNG THỂ ĐẾN”. Chính đó là chỗ truyền của chư Phật là mật ấn của Tổ Sư. Vì sao? Bởi dù “NÓ RÕ RÀNG THƯỜNG BIẾT”, nó sờ sờ ra đó, nhưng làm sao nói tột đến được? Nếu chúng ta một bề nghe nói rồi nhằm trên những tướng biểu hiện ra đó mà bám lấy, thì những tướng này cũng là tướng sanh diệt đấy thôi. Khi xoay đầu thì đến lúc không có đầu lấy gì xoay? Nghe bảng mặc áo, rung cây trà, nói năng hỏi đáp, cúi ngước tới lui, đưa tay rút tay, có ngoài tướng sanh diệt chi đâu? Làm sao dám bảo đảm là chỗ nương tựa muôn đời mãi mãi cho mình? Do đó, xét cho tột lý thì những điều đã nêu ra từ trước đến đây cũng chỉ là NÓI BÓNG GIÓ, khiến người NHÂN CÁI NÀY mà nhận ra “CÁI KIA” vậy thôi, chứ nào đã từng đụng đến chỗ này.
Bởi vậy, đến chỗ tột này thì người người không thể dùng cái hiểu theo thường tình của mình mà hiểu nổi, từ đó có kẻ lại sinh ra phỉ báng cho rằng nó không có. Tuy nhiên dù người cho rằng nó “CÓ” hay “KHÔNG CÓ” cứ mặc, tới chỗ này thì “NÓ VẪN LÀ NÓ” không can hệ gì đến những lời vớ vẩn kia đây. Chính vì thế mà đến chỗ cuối cùng này, mỗi khi được hỏi tới thì chư Tổ chỉ khăng khăng đáp rằng: KHÔNG BIẾT! KHÔNG BIẾT! Mặc cho người lý luận phải quấy hay chỉ trích bàn tán lăng xăng, nhưng: NÓ VẪN SỜ SỜ ĐẤY THÔI! Đó là MỘT SỰ THẬT MUÔN ĐỜi XIN GỞi LẠI CHO TẤT CẢ AI AI!
Bài thơ xin tóm kết:
Xưa nay trước mắt sờ sờ,
Có gì thiếu thốn mà quơ thêm vào.
Khiến cho đã sáng từ lâu,
Trở thành mờ tối còn đâu thuở nào?
Khuyên anh hãy thức đi mau!
Chớ đừng mơ nữa, mà lau mặt mình.
Bao nhiêu mộng mị hãy xin,
Trả về cho lúc chưa thành có Ta.
Sống liền ngay cái “ĐANG LÀ”,
“HIỆN TIỀN SÁNG RỰC” nơi ta muôn đời.
Còn bao chữ nghĩa xin thôi,
Trăng tâm, mắt tuệ cũng LỜI TRÊN MÔI.

Ta là Gì ?

I. XÁC ĐỊNH RÕ CÁI GÌ LÀ TA?
Nói chung, Đức Phật ra đời thuyết pháp độ sanh, cũng để chỉ rõ cho người nhận kỹ điều này, khiến người mở sáng mắt đạo, thấy đúng lẽ thật nơi con người đang sống giữa cuộc đời này chứ gì? Nghĩa là, sống mà không biết gì là Ta?

Ai đang sống đây? Thì sao gọi là sống? Chính mình là chủ của cuộc sống, bao nhiêu thứ tạo tác cũng để vì mình, mà hỏi đến: Mình là gì? Thì chới với, lúng túng đáp không xong, vậy cái gì sống đây? Sống có ý nghĩa gì? Đó gọi là sống cũng như chết. Con người thông thường cứ lo tìm biết điều này, điều nọ, biết cả trên sao Hỏa, sao Mộc, nhưng khi hỏi đến: TA LÀ GÌ ? Trả lời không thông, thử hỏi có thực tế chưa? Hòa Thượng có ví dụ, một người chủ nhà, hỏi đến việc nhà người này, người khác thì trả lời vanh vách, nhưng khi hỏi đến việc nhà mình thì ú ớ không thông, vậy là chúng ta sẽ kết luận thế nào? Người đó có thực tế hay không ?
Điều quan trọng nhất là, đối với việc tu hành, nếu chúng ta không rõ được điều này cho chính xác thì tu hành khó tiến được, có khi còn lầm lạc nữa là khác. Chẳng hạn, nếu không rành rõ, đem cái ta giả dối này, làm cái nhân để tu cầu giải thoát thì càng tu e càng phiền não thêm, hoặc càng tu, tình chấp ngã càng nặng thêm, tức cách xa con đường giải thoát. Bởi lầm lẫn “nhân quả” tu hành, lấy cái nhân sanh tử làm giải thoát, làm sao đến được giải thoát chân thật? Chính vì vậy, trước thời Phật ra đời, ở Ấn Độ có nhiều vị tu hành rất công phu, có sức thiền định cao, nhưng vẫn lẩn quẩn trong sanh tử. Như chuyện vị Phạm Chí Hắc Thị tu đắc năm thần thông, thuyết pháp rất hay, đến cả trời Đế Thích cũng xuống nghe pháp. Song, một hôm nghe vị ấy giảng xong, trời Đế Thích tỏ vẻ buồn bã rơi lệ. Phạm Chí thấy lạ bèn hỏi:
- Ngài vì sao buồn khóc như thế?
Trời Đế Thích nói:
- Tôi nghe Ngài giảng pháp rất hay, song tôi biết rõ tuổi thọ của Ngài chỉ còn bảy ngày nữa thôi.
Phạm Chí nghe xong hoảng sợ, xin Trời Đế Thích cứu cho. Trời Đế Thích từ chối mà chỉ ông đến Đức Phật. Phạm Chí bèn vội đến chỗ Phật, trên đường ông thấy hai cây ngô đồng đang trổ hoa đẹp, liền dùng thần thông nhổ cả hai cây bưng trên hai tay đến cúng dường Phật. Phật gọi tiên nhân Phạm Chí bảo:
- Hãy buông đi!
Phạm Chí liền buông cây hoa ngô đồng trên tay trái. Phật lại bảo:
- Buông đi!
Phạm Chí buông tiếp cây hoa ngô đồng trên tay phải. Phật lại bảo tiếp:
- Buông đi!
Phạm Chí liền thưa:
- Bạch Thế Tôn! Hai tay con đều trống cả rồi, Ngài còn bảo con buông cái gì nữa?
Phật bảo:
- Ta chẳng phải bảo ông buông gốc hoa đó, mà chính là bảo ông buông xả sáu trần bên ngoài, sáu căn bên trong và sáu thức ở giữa kia kìa; tất cả một lúc buông sạch hết KHÔNG CÒN CHỖ NÀO ĐỂ BUÔNG NỮA, ngay đó CHÍNH LÀ CHỖ ÔNG THOÁT KHỎi SANH TỬ.
Phạm Chí ngay đó liền tỏ ngộ pháp vô sanh, lễ tạ Phật.
Như vậy, cho thấy rằng, dù tu đắc năm thần thông mà chưa đạt lậu tận thông, tức sạch hết tình chấp ngã này, vẫn chưa khỏi vòng sanh tử luân hồi. Vậy thì, ngay đây chúng ta hãy xác định rõ xem: Cái gì là Ta? Cái thây thúi 60, 70 ký lô này chăng? Cái khối đen trắng, mập ốm, cao thấp nầy chăng? Cái buồn thương, giận ghét, ích kỷ, kiêu căng hơn thua, ta người này chăng? Nếu cái Ta chỉ có bấy nhiêu đó, thì cuối cùng sẽ ra sao? Tức là chung cuộc sẽ: Ô hô! Ra nghĩa địa! Tổ Lâm Tế từng dạy: “Này huynh đệ! Các ông chớ nhận lấy kẻ bạn mộng huyễn này, trong khoảng sớm chiều nó liền trở về vô thường. Các ông nhằm trong thế giới này tìm vật gì làm giải thoát? Tìm một miếng cơm ăn, một manh áo vá qua ngày ư? Cốt phải tìm hỏi bậc tri thức, chớ lần lựa đuổi theo thú vui! Thời giờ đáng tiếc, niệm niệm vô thường, thô thì bị đất nước gió lửa, tế thì bị bốn tướng sanh trụ dị diệt”. Đó là Ngài nhắc nhở cho người, phải tìm lấy một cái gì chân thật làm chỗ nương tựa vững bền lâu dài, chớ bám vào cái xác thân mộng huyễn vô thường này, dù cố gìn giữ cách mấy, cuối cùng cũng phải bỏ lại, tan hoại trả về với cát bụi! Người có thực tâm tu hành có thể lơ là với việc này sao?

II. CHẤP NGÃ LÀ VÔ MINH ĐIÊN ĐẢO
Chính vì sự mê lầm, chấp trước lẫn lộn trái ngược trên đây, mà Đức Phật gọi chúng ta là vô minh điên đảo. Kinh Viên Giác Phật từng định nghĩa vô minh như sau: “Phật bảo Bồ Tát Văn Thù: Nhân địa tu hành từ xưa của Như Lai là y tánh Viên Giác thanh tịnh mà dứt hẳn vô minh mới thành Phật. Thế nào là vô minh?… Tức tất cả chúng sanh từ vô thủy đến nay, bị nhiều thứ điên đảo giống như kẻ mê, thấy bốn phương dời đổi, vọng nhận tứ đại làm tướng tự thân, bóng dáng duyên nơi sáu trần làm tướng tự tâm… do đó mà vọng có sự lưu chuyển trong sanh tử, nên gọi là vô minh”.
Tức là Đức Phật muốn chỉ, chúng ta cứ chấp càn xác thân tứ đại giả hợp này làm ta, chấp bướng tâm suy nghĩ phân biệt sanh diệt lăng xăng duyên theo bóng dáng sáu trần làm ta, đó gọi là vô minh. Nghĩa là nhận cái sanh diệt tạm bợ làm ta, không vô minh là gì? Ta là cái sanh diệt như vậy sao? Bài Tâm Kinh Bát Nhã đã nói ngay từ đầu
“Bồ Tát thực hành sâu Bát Nhã ba la mật đa, soi thấu năm uẩn đều không”. Là không thực có cái Ta trong đó. Song đây cũng chỉ là danh tự, chúng ta phải soi thấu:“THẾ NÀO LÀ KHÔNG ?” bằng chính trí tuệ của chính mình mới là điều quan trọng. Đây chúng ta hãy soi một cách đơn giản thế này:
-
SẮC, là đối với tâm mà có, mà tồn tại. Không có tâm, sắc này là xác chết thôi. Nói rộng ra, không có tâm thì cái gì biết sắc? Dù có sắc, sắc đó cũng như không, cũng là thế giới chết chứ gì. Do đối đãi mà thành, tự nó không có thật thể cố định, đó là sắc tức không rõ ràng không nghi.
-
THỌ, đối với cảnh bị thọ mà có, tức luôn luôn có thọ một cái gì. Nếu không có đối tượng để thọ, thì thọ mất bóng, rõ ràng nó không có tự thể hằng hữu, thọ tức là không.
-
TƯỞNG, cũng luôn luôn tưởng một cái gì, phải có đối tượng để tưởng. Chúng ta thử tưởng một cái gì không có đối tượng để tưởng xem! Làm sao tưởng? Tưởng liền mất dấu ngay. Rõ ràng “tưởng tức không”, nghĩa là không có thực thể của nó, chỉ đối duyên mà tạm có thôi.
-
HÀNH, tứ niệm niệm thầm kín bên trong, cũng luôn luôn là có niệm một cái gì đó, không đối tượng để niệm thì niệm cũng bặt, làm sao bảo nó thật có được.
-
THỨC, là phân biệt, cũng luôn luôn có đối tượng để phân biệt. Có phân biệt là phải có phân biệt cái gì. Không thể có cái phân biệt khơi khơi. Rời đối tượng phân biệt, thức bám vào đâu để tồn tại? Hiểu thấu chỗ này thì chúng ta thấy đầu mối tu hành dễ dàng. Anh ngồi thiền suy nghĩ thì cứ suy nghĩ, nhưng hãy nghĩ xem! Làm sao suy nghĩ? Ngay đó tức nó lặng ngay thôi.
Xét tột năm uẩn như thế, thì cái ta bám vào chỗ nào? Tuy nhiên, giờ đây hãy gạt ra những kiến thức hiểu biết lâu nay đi, rồi chính ngay trong năm uẩn này chỉ ra xem: Cái gì là Ta? Xét cho thật kỹ, không phải chỉ hiểu suông, mà chiếu soi thật sự bằng chính con mắt tâm của chính mình! Ta, chỉ là một khái niệm chứ gì! Ai cũng cứ
TƯỞNG CÓ MỘT CÁI MANG TÊN TA, nó ngự trị trong thân này, nó làm chủ cuộc sống nay. Do bám vào cái NGÃ TƯỞNG đó mà sanh ra cống cao, ngã mạn, giành giựt hơn thua … tạo thành trăm ngàn, muôn thứ nghiệp, rồi chịu khổ luân hồi dài dài. Phật gọi đó là Tập Nhân của khổ. Chừng nào cái Tập Nhân này còn, là còn khổ mãi, còn đi trong sanh tử không dừng. Có một bà già đến hỏi Hòa Thượng Triệu Châu:
- Con mang thân nữ bị năm dây ràng buộc gây chướng ngại cho Phật tánh, làm sao thoát ly được những triền phược ấy?
Sư bảo:
- Bà hãy nguyện cho tất cả mọi người đều sanh lên cõi trời. Còn thân hèn này nguyện tiếp tục chịu trầm luân một mình trong biển khổ.
Đó là cách thuyết pháp đặc biệt của Thiền Sư. Mới nghe qua, ai cũng lấy làm lạ, nhưng chính đó là lời đáp vi diệu. Bởi người cứ chấp chặt vào cái Ta này, mang thân nữ liền bám chặt vào tướng nữ, mang thân nam liền bám chặt vào tướng nam, thân đui mù, què quặt vẫn bám chặt vào nó không thể buông, do đó chịu khổ chứ gì! Giờ đây, phát nguyện như thế, tức là quên mình, QUÊN CÁI TA NÀY, chỉ nghĩ đến người, biết có người thôi. Đã quên ta, KHÔNG THẤY CÓ TA thì lấy cái gì để khổ? Khổ bám vào đâu? Ngay đó liền hết khổ! Đó là cách đáp khéo léo mà xác đáng vô cùng!
Hiểu như vậy rồi, chúng ta hiểu thêm, từ chấp ta đó, kéo theo chấp cái của ta, tức ngã sở, cũng không dễ gì buông, có lúc còn muốn đậm hơn nữa. Trong nhà Thiền có câu chuyện: Có vị tướng quân đã chán việc chiến trường đến Thiền Sư Đại Huệ xin xuất gia. Ông thưa với Sư:
- Bạch thầy! Hiện tại con đã trừ sạch niệm hồng trần, xin thầy từ bi thu con xuất gia, cho con làm đệ tử của thầy.
- Ông có gia đình, có tập khí ngoài đời nặng nề, ông chẳng thể xuất gia, hãy thong thả từ từ!
Ông thưa:
- Bạch thầy, hiện tại cái gì con đều bỏ được cả, vợ con thê thiếp, gia đình đều không thành vấn đề đối với con, xin thầy cho con xuất gia ngay.
Sư vẫn bảo:
- Hãy thong thả từ từ!
Ông đành chờ. Một hôm, ông dậy rất sớm đến trong chánh điện lễ Phật. Ngài Đại Huệ thấy, bèn hỏi:
- Tướng quân vì sao dậy sớm đến lễ Phật như thế?
Ông bắt chước dùng thi kệ thiền ngữ để đáp:
Vì trừ lửa trong tâm,
Dậy sớm lễ Sư trưởng.
Ngài Đại Huệ bèn cười, dùng kệ đáp lại:
Dậy sớm như thế ấy,
Chẳng sợ vợ ngủ người.
Ông vừa nghe, liền nổi giận mắng:
- Lão quái này, sao nói năng xúc phạm đến người quá vậy!
Thiền Sư Đại Huệ liền cười ha hả, bảo:
Nhè nhẹ phẩy chiếc quạt,
Tánh lửa đã bừng lên.
Nóng nảy hừng như thế,
Sao bảo buông xuống xong?
Đây là cho thấy, bên ngoài bình thường chưa đụng cảnh, chúng ta cứ tưởng mình đã sạch chấp, đã không còn dính mắc, nhưng trong âm thầm tình chấp ngã, ngã sở vẫn còn ngủ ngầm đó, gặp cơ hội nó liền hiện lên. Do đó trong nhà thiền thường nhắc nhở phải “hạnh giải tương ưng”, hiểu và hành phải thật khế hợp, không thể chỉ hiểu suông cho là đủ.

Chuyện thứ hai, Hòa Thượng Kim Bích Phong sau khi tỏ ngộ, Sư buông hết mọi tham ái, chỉ thích một cái bát bằng ngọc chẳng rời tay. Mỗi lần trước khi ngồi thiền định, Sư đem cái bát cất kỹ gần bên mới an tâm. Có lần, nhân tuổi thọ Sư đã hết, vua Diêm La sai Quỷ đến bắt Sư. Song Sư cũng biết thời đã đến, mỉm cười ngồi nhập định, xem vua Diêm La làm gì. Quỷ đến bên cạnh Sư, đợi 1 ngày, 2 ngày … không thể bắt Sư, bèn đi hỏi ý thổ địa. Thổ địa bảo:
- Thiền Sư Kim Bích Phong này rất thích cái bát ngọc, nếu ngưoi có cách đem cái bát ấy di, Ngài động niệm sẽ xuất định.
Quỷ nghe nói, liền nhanh đến chỗ đặt cái bát ấy làm lay động nó. Sư nghe tiếng cái bát động, động niệm liền xuất định giữ lại! Quỷ thấy Sư xuất định, liền vỗ tay cười to:
- Hay đấy! Giờ đây xin mời Ngài theo tôi đến gặp vua Diêm La.
Thiền Sư Kim Bích Phong vừa nghe lời quỷ, biết rõ do tâm tham ái cái bát, làm mất đi huệ mạng ngàn năm của mình, liền đập vỡ cái bát ngọc, nhập định trở lại và để bài kệ:
Nhược nhân dục nã Kim Bích Phong,
Trừ phi thiết luyện tỏa hư không.
Hư không nhược năng tỏa đắc trụ,
Tái lai nã ngã Kim Bích Phong.
Tạm dịch:
Nếu người muốn bắt Kim Bích Phong,
Trừ khi sắt luyện khóa hư không.
Nếu hay khóa được hư không ấy.
Trở lại bắt ta Kim Bích Phong.

Đó là vì có chút tình luyến ái vật sở hữu mà tâm bị động, tâm động liền có tướng hiện, tức bị quỷ thần xem thấy. May là Sư còn có sức định tỉnh mạnh, nếu không đã bị quỷ dẫn đi mất rồi! Chỗ này C
Ó THỂ DÙNG LÝ LUẬN ĐẾN ĐƯỢC SAO ?