I. XÁC ĐỊNH RÕ CÁI GÌ LÀ TA?
Nói chung, Đức Phật ra đời thuyết pháp độ sanh, cũng để chỉ rõ cho người nhận kỹ điều này, khiến người mở sáng mắt đạo, thấy đúng lẽ thật nơi con người đang sống giữa cuộc đời này chứ gì? Nghĩa là, sống mà không biết gì là Ta?
Ai đang sống đây? Thì sao gọi là sống? Chính mình là chủ của cuộc sống, bao nhiêu thứ tạo tác cũng để vì mình, mà hỏi đến: Mình là gì? Thì chới với, lúng túng đáp không xong, vậy cái gì sống đây? Sống có ý nghĩa gì? Đó gọi là sống cũng như chết. Con người thông thường cứ lo tìm biết điều này, điều nọ, biết cả trên sao Hỏa, sao Mộc, nhưng khi hỏi đến: TA LÀ GÌ ? Trả lời không thông, thử hỏi có thực tế chưa? Hòa Thượng có ví dụ, một người chủ nhà, hỏi đến việc nhà người này, người khác thì trả lời vanh vách, nhưng khi hỏi đến việc nhà mình thì ú ớ không thông, vậy là chúng ta sẽ kết luận thế nào? Người đó có thực tế hay không ?
Điều quan trọng nhất là, đối với việc tu hành, nếu chúng ta không rõ được điều này cho chính xác thì tu hành khó tiến được, có khi còn lầm lạc nữa là khác. Chẳng hạn, nếu không rành rõ, đem cái ta giả dối này, làm cái nhân để tu cầu giải thoát thì càng tu e càng phiền não thêm, hoặc càng tu, tình chấp ngã càng nặng thêm, tức cách xa con đường giải thoát. Bởi lầm lẫn “nhân quả” tu hành, lấy cái nhân sanh tử làm giải thoát, làm sao đến được giải thoát chân thật? Chính vì vậy, trước thời Phật ra đời, ở Ấn Độ có nhiều vị tu hành rất công phu, có sức thiền định cao, nhưng vẫn lẩn quẩn trong sanh tử. Như chuyện vị Phạm Chí Hắc Thị tu đắc năm thần thông, thuyết pháp rất hay, đến cả trời Đế Thích cũng xuống nghe pháp. Song, một hôm nghe vị ấy giảng xong, trời Đế Thích tỏ vẻ buồn bã rơi lệ. Phạm Chí thấy lạ bèn hỏi:
- Ngài vì sao buồn khóc như thế?
Trời Đế Thích nói:
- Tôi nghe Ngài giảng pháp rất hay, song tôi biết rõ tuổi thọ của Ngài chỉ còn bảy ngày nữa thôi.
Phạm Chí nghe xong hoảng sợ, xin Trời Đế Thích cứu cho. Trời Đế Thích từ chối mà chỉ ông đến Đức Phật. Phạm Chí bèn vội đến chỗ Phật, trên đường ông thấy hai cây ngô đồng đang trổ hoa đẹp, liền dùng thần thông nhổ cả hai cây bưng trên hai tay đến cúng dường Phật. Phật gọi tiên nhân Phạm Chí bảo:
- Hãy buông đi!
Phạm Chí liền buông cây hoa ngô đồng trên tay trái. Phật lại bảo:
- Buông đi!
Phạm Chí buông tiếp cây hoa ngô đồng trên tay phải. Phật lại bảo tiếp:
- Buông đi!
Phạm Chí liền thưa:
- Bạch Thế Tôn! Hai tay con đều trống cả rồi, Ngài còn bảo con buông cái gì nữa?
Phật bảo:
- Ta chẳng phải bảo ông buông gốc hoa đó, mà chính là bảo ông buông xả sáu trần bên ngoài, sáu căn bên trong và sáu thức ở giữa kia kìa; tất cả một lúc buông sạch hết KHÔNG CÒN CHỖ NÀO ĐỂ BUÔNG NỮA, ngay đó CHÍNH LÀ CHỖ ÔNG THOÁT KHỎi SANH TỬ.
Phạm Chí ngay đó liền tỏ ngộ pháp vô sanh, lễ tạ Phật.
Như vậy, cho thấy rằng, dù tu đắc năm thần thông mà chưa đạt lậu tận thông, tức sạch hết tình chấp ngã này, vẫn chưa khỏi vòng sanh tử luân hồi. Vậy thì, ngay đây chúng ta hãy xác định rõ xem: Cái gì là Ta? Cái thây thúi 60, 70 ký lô này chăng? Cái khối đen trắng, mập ốm, cao thấp nầy chăng? Cái buồn thương, giận ghét, ích kỷ, kiêu căng hơn thua, ta người này chăng? Nếu cái Ta chỉ có bấy nhiêu đó, thì cuối cùng sẽ ra sao? Tức là chung cuộc sẽ: Ô hô! Ra nghĩa địa! Tổ Lâm Tế từng dạy: “Này huynh đệ! Các ông chớ nhận lấy kẻ bạn mộng huyễn này, trong khoảng sớm chiều nó liền trở về vô thường. Các ông nhằm trong thế giới này tìm vật gì làm giải thoát? Tìm một miếng cơm ăn, một manh áo vá qua ngày ư? Cốt phải tìm hỏi bậc tri thức, chớ lần lựa đuổi theo thú vui! Thời giờ đáng tiếc, niệm niệm vô thường, thô thì bị đất nước gió lửa, tế thì bị bốn tướng sanh trụ dị diệt”. Đó là Ngài nhắc nhở cho người, phải tìm lấy một cái gì chân thật làm chỗ nương tựa vững bền lâu dài, chớ bám vào cái xác thân mộng huyễn vô thường này, dù cố gìn giữ cách mấy, cuối cùng cũng phải bỏ lại, tan hoại trả về với cát bụi! Người có thực tâm tu hành có thể lơ là với việc này sao?
II. CHẤP NGÃ LÀ VÔ MINH ĐIÊN ĐẢO
Chính vì sự mê lầm, chấp trước lẫn lộn trái ngược trên đây, mà Đức Phật gọi chúng ta là vô minh điên đảo. Kinh Viên Giác Phật từng định nghĩa vô minh như sau: “Phật bảo Bồ Tát Văn Thù: Nhân địa tu hành từ xưa của Như Lai là y tánh Viên Giác thanh tịnh mà dứt hẳn vô minh mới thành Phật. Thế nào là vô minh?… Tức tất cả chúng sanh từ vô thủy đến nay, bị nhiều thứ điên đảo giống như kẻ mê, thấy bốn phương dời đổi, vọng nhận tứ đại làm tướng tự thân, bóng dáng duyên nơi sáu trần làm tướng tự tâm… do đó mà vọng có sự lưu chuyển trong sanh tử, nên gọi là vô minh”.
Tức là Đức Phật muốn chỉ, chúng ta cứ chấp càn xác thân tứ đại giả hợp này làm ta, chấp bướng tâm suy nghĩ phân biệt sanh diệt lăng xăng duyên theo bóng dáng sáu trần làm ta, đó gọi là vô minh. Nghĩa là nhận cái sanh diệt tạm bợ làm ta, không vô minh là gì? Ta là cái sanh diệt như vậy sao? Bài Tâm Kinh Bát Nhã đã nói ngay từ đầu “Bồ Tát thực hành sâu Bát Nhã ba la mật đa, soi thấu năm uẩn đều không”. Là không thực có cái Ta trong đó. Song đây cũng chỉ là danh tự, chúng ta phải soi thấu:“THẾ NÀO LÀ KHÔNG ?” bằng chính trí tuệ của chính mình mới là điều quan trọng. Đây chúng ta hãy soi một cách đơn giản thế này:
- SẮC, là đối với tâm mà có, mà tồn tại. Không có tâm, sắc này là xác chết thôi. Nói rộng ra, không có tâm thì cái gì biết sắc? Dù có sắc, sắc đó cũng như không, cũng là thế giới chết chứ gì. Do đối đãi mà thành, tự nó không có thật thể cố định, đó là sắc tức không rõ ràng không nghi.
- THỌ, đối với cảnh bị thọ mà có, tức luôn luôn có thọ một cái gì. Nếu không có đối tượng để thọ, thì thọ mất bóng, rõ ràng nó không có tự thể hằng hữu, thọ tức là không.
- TƯỞNG, cũng luôn luôn tưởng một cái gì, phải có đối tượng để tưởng. Chúng ta thử tưởng một cái gì không có đối tượng để tưởng xem! Làm sao tưởng? Tưởng liền mất dấu ngay. Rõ ràng “tưởng tức không”, nghĩa là không có thực thể của nó, chỉ đối duyên mà tạm có thôi.
- HÀNH, tứ niệm niệm thầm kín bên trong, cũng luôn luôn là có niệm một cái gì đó, không đối tượng để niệm thì niệm cũng bặt, làm sao bảo nó thật có được.
- THỨC, là phân biệt, cũng luôn luôn có đối tượng để phân biệt. Có phân biệt là phải có phân biệt cái gì. Không thể có cái phân biệt khơi khơi. Rời đối tượng phân biệt, thức bám vào đâu để tồn tại? Hiểu thấu chỗ này thì chúng ta thấy đầu mối tu hành dễ dàng. Anh ngồi thiền suy nghĩ thì cứ suy nghĩ, nhưng hãy nghĩ xem! Làm sao suy nghĩ? Ngay đó tức nó lặng ngay thôi.
Xét tột năm uẩn như thế, thì cái ta bám vào chỗ nào? Tuy nhiên, giờ đây hãy gạt ra những kiến thức hiểu biết lâu nay đi, rồi chính ngay trong năm uẩn này chỉ ra xem: Cái gì là Ta? Xét cho thật kỹ, không phải chỉ hiểu suông, mà chiếu soi thật sự bằng chính con mắt tâm của chính mình! Ta, chỉ là một khái niệm chứ gì! Ai cũng cứ TƯỞNG CÓ MỘT CÁI MANG TÊN TA, nó ngự trị trong thân này, nó làm chủ cuộc sống nay. Do bám vào cái NGÃ TƯỞNG đó mà sanh ra cống cao, ngã mạn, giành giựt hơn thua … tạo thành trăm ngàn, muôn thứ nghiệp, rồi chịu khổ luân hồi dài dài. Phật gọi đó là Tập Nhân của khổ. Chừng nào cái Tập Nhân này còn, là còn khổ mãi, còn đi trong sanh tử không dừng. Có một bà già đến hỏi Hòa Thượng Triệu Châu:
- Con mang thân nữ bị năm dây ràng buộc gây chướng ngại cho Phật tánh, làm sao thoát ly được những triền phược ấy?
Sư bảo:
- Bà hãy nguyện cho tất cả mọi người đều sanh lên cõi trời. Còn thân hèn này nguyện tiếp tục chịu trầm luân một mình trong biển khổ.
Đó là cách thuyết pháp đặc biệt của Thiền Sư. Mới nghe qua, ai cũng lấy làm lạ, nhưng chính đó là lời đáp vi diệu. Bởi người cứ chấp chặt vào cái Ta này, mang thân nữ liền bám chặt vào tướng nữ, mang thân nam liền bám chặt vào tướng nam, thân đui mù, què quặt vẫn bám chặt vào nó không thể buông, do đó chịu khổ chứ gì! Giờ đây, phát nguyện như thế, tức là quên mình, QUÊN CÁI TA NÀY, chỉ nghĩ đến người, biết có người thôi. Đã quên ta, KHÔNG THẤY CÓ TA thì lấy cái gì để khổ? Khổ bám vào đâu? Ngay đó liền hết khổ! Đó là cách đáp khéo léo mà xác đáng vô cùng!
Hiểu như vậy rồi, chúng ta hiểu thêm, từ chấp ta đó, kéo theo chấp cái của ta, tức ngã sở, cũng không dễ gì buông, có lúc còn muốn đậm hơn nữa. Trong nhà Thiền có câu chuyện: Có vị tướng quân đã chán việc chiến trường đến Thiền Sư Đại Huệ xin xuất gia. Ông thưa với Sư:
- Bạch thầy! Hiện tại con đã trừ sạch niệm hồng trần, xin thầy từ bi thu con xuất gia, cho con làm đệ tử của thầy.
- Ông có gia đình, có tập khí ngoài đời nặng nề, ông chẳng thể xuất gia, hãy thong thả từ từ!
Ông thưa:
- Bạch thầy, hiện tại cái gì con đều bỏ được cả, vợ con thê thiếp, gia đình đều không thành vấn đề đối với con, xin thầy cho con xuất gia ngay.
Sư vẫn bảo:
- Hãy thong thả từ từ!
Ông đành chờ. Một hôm, ông dậy rất sớm đến trong chánh điện lễ Phật. Ngài Đại Huệ thấy, bèn hỏi:
- Tướng quân vì sao dậy sớm đến lễ Phật như thế?
Ông bắt chước dùng thi kệ thiền ngữ để đáp:
Vì trừ lửa trong tâm,
Dậy sớm lễ Sư trưởng.
Ngài Đại Huệ bèn cười, dùng kệ đáp lại:
Dậy sớm như thế ấy,
Chẳng sợ vợ ngủ người.
Ông vừa nghe, liền nổi giận mắng:
- Lão quái này, sao nói năng xúc phạm đến người quá vậy!
Thiền Sư Đại Huệ liền cười ha hả, bảo:
Nhè nhẹ phẩy chiếc quạt,
Tánh lửa đã bừng lên.
Nóng nảy hừng như thế,
Sao bảo buông xuống xong?
Đây là cho thấy, bên ngoài bình thường chưa đụng cảnh, chúng ta cứ tưởng mình đã sạch chấp, đã không còn dính mắc, nhưng trong âm thầm tình chấp ngã, ngã sở vẫn còn ngủ ngầm đó, gặp cơ hội nó liền hiện lên. Do đó trong nhà thiền thường nhắc nhở phải “hạnh giải tương ưng”, hiểu và hành phải thật khế hợp, không thể chỉ hiểu suông cho là đủ.
Chuyện thứ hai, Hòa Thượng Kim Bích Phong sau khi tỏ ngộ, Sư buông hết mọi tham ái, chỉ thích một cái bát bằng ngọc chẳng rời tay. Mỗi lần trước khi ngồi thiền định, Sư đem cái bát cất kỹ gần bên mới an tâm. Có lần, nhân tuổi thọ Sư đã hết, vua Diêm La sai Quỷ đến bắt Sư. Song Sư cũng biết thời đã đến, mỉm cười ngồi nhập định, xem vua Diêm La làm gì. Quỷ đến bên cạnh Sư, đợi 1 ngày, 2 ngày … không thể bắt Sư, bèn đi hỏi ý thổ địa. Thổ địa bảo:
- Thiền Sư Kim Bích Phong này rất thích cái bát ngọc, nếu ngưoi có cách đem cái bát ấy di, Ngài động niệm sẽ xuất định.
Quỷ nghe nói, liền nhanh đến chỗ đặt cái bát ấy làm lay động nó. Sư nghe tiếng cái bát động, động niệm liền xuất định giữ lại! Quỷ thấy Sư xuất định, liền vỗ tay cười to:
- Hay đấy! Giờ đây xin mời Ngài theo tôi đến gặp vua Diêm La.
Thiền Sư Kim Bích Phong vừa nghe lời quỷ, biết rõ do tâm tham ái cái bát, làm mất đi huệ mạng ngàn năm của mình, liền đập vỡ cái bát ngọc, nhập định trở lại và để bài kệ:
Nhược nhân dục nã Kim Bích Phong,
Trừ phi thiết luyện tỏa hư không.
Hư không nhược năng tỏa đắc trụ,
Tái lai nã ngã Kim Bích Phong.
Tạm dịch:
Nếu người muốn bắt Kim Bích Phong,
Trừ khi sắt luyện khóa hư không.
Nếu hay khóa được hư không ấy.
Trở lại bắt ta Kim Bích Phong.
Đó là vì có chút tình luyến ái vật sở hữu mà tâm bị động, tâm động liền có tướng hiện, tức bị quỷ thần xem thấy. May là Sư còn có sức định tỉnh mạnh, nếu không đã bị quỷ dẫn đi mất rồi! Chỗ này CÓ THỂ DÙNG LÝ LUẬN ĐẾN ĐƯỢC SAO ?
0 comments:
Post a Comment