|
Friday, June 11, 2010
Ngắm hoa sen “khổng lồ” trên sông Hương
LUẬT NHÂN QUẢ
I. ĐỊNH NGHĨA
1.- Luật:
Có người cho rằng đã gọi là luật thì tất phải có một đấng Thiêng liêng nào, người nào, hay xã hội đặt ra. Quan niệm này có nghĩa hẹp hòi và nông cạn. Luật ở đây là luật thiên nhiên, luật tự nhiên, nó bao trùm cả vũ trụ, vạn vật, chớ không nằm trong phạm vi của loài người, hay trong một xã hội nào. Người ta có thể khám phá ra luật ấy, chứ không thể đặt ra luật ấy được. Đức Phật, mặc dù là một Đấng Giảc ngộ, cũng không đặt ra luật ấy, Ngài chỉ là người đã dùng trí huệ sáng suốt của mình, để vạch cho mọi người thấy rõ ràng cái luật nhân quả đang điều hành trong vũ trụ mà thôi.
2.- Nhân quả:
Nhân là nguyên nhân, Quả là kết quả. Nhân là cái hạt, Quả là cái trái do hạt ấy phát sinh. Nhân là năng lực phát động, Quả là sự thành hình của năng lực phát động ấy. Nhân quả là một định luật tất nhiên, có tương quan mật thiết với nhau và chi phối tất cả mọi sự mọi vật.
II. NHỮNG ĐẶC TÍNH CỦA LUẬT NHÂN QUẢ
1.- Nhân quả là một định luật nằm trong lý nhân duyên:
Nhân quả là một định luật, mới ngó thì rất giản dị, nhưng nếu càng đi sâu vào sự vật để nghiên cứu thì lại càng thấy phức tạp, khó khăn. Trong vũ trụ mọi sự vật không phải đơn thuần tách rời từng món, mà có liên quan mật thiết với nhau, xoắn lầy nhau, đan lấy nhau ảnh hưởng lẫn nhau, tương phản nhau, thừa tiếp nhau. Để nói đúng trạng thái chằng chịt giữa sự vật, đạo Phật thường dùng danh từ “Nhân duyên”, nghĩa là mọi sự, mọi vật có ra là nhờ duyên với nhau, nương vào nhau, hay tương phản nhau mà thành, chứ không có một cái nào đứng biệt lập được. Trong sự phức tạp của sự vật ấy, tìm ra được cái nhân chánh của quả, hay cái quả chính của nhân, không phải là việc dễ. Do đó mà nhiều người không quen suy nghĩ tìm tòi sâu xa, sanh ra nghi ngờ thuyết “Nhân quả”. Thí dụ: hạt lúa có thể làm nhân cho những chẹn lúa vàng là quả trong mùa gặt sau, nếu người ta đem gieo nó xuống đất; nhưng nó cũng có thể làm cho người ta no bụng, biến thành máu thành thịt trong cơ thể và thành phân bón cho cây cỏ, nếu chúng ta đem nấu nó để mà ăn. Như thế một nhân chính có thể thành ra quả này hay quả khác, nếu những nhân phụ khác nhau: muốn hạt lúa ở mùa này thành chẹn luá ở mùa sau, thì phải có đất, có nước, có ánh sáng, có không khí, có thời gian, có nhân công; muốn nó thành máu huyết thì phải nầu, phải ăn, phải có bộ máy tiêu hóa. Cho nên, khi nói nhân quả là tách riêng sự vật ra khỏi cái chung cùng toàn thể của vũ trụ, lấy một khía cạnh nào đó, đề dễ quan sát, nghiên cứu, chứ muốn nói cho đúng thì phải dùng hai chữ “Nhân Duyên”. Cũng như một nhà khoa học, khi muốn nghiên cứu một bộ phận nào trong cơ thể, khu biệt, cắt xén bộ phận ấy ra khỏi cơ thể, để nghiên cứu cho dễ, chứ thật ra bộ phận ấy không phái biệt lập, mà trái lại có liên quan mật thiết đến toàn cả cơ thể.
2.- Một nhân không thể sinh ra quả:
Như chúng ta đã thấy ở đoạn trên, sự vật trong vũ trụ này đều là sự tổ hợp của nhiều nhân duyên. Cho nên không có một nhân nào có thề tự tác thành kết quả được, nếu không có sự giúp đỡ của nhiều nhân khác. Nói rằng hạt lúa sinh ra cây lúa, là nói một cách giản đị cho dễ hiểu, chứ thật ra hạt lúa không thể sinh ra gì được cả; nếu để nó một mình giữa khoảng trống không, thiếu không khí, ánh sáng, đất, nước, nhân công.
Cho nên, khi nghe ai tuyên bố rằng mọi vật do một nhân sinh ra, hay một nhân có thể sinh ra vạn vật; ta có thể chắc chắn rằng người ấy nói sai.
3.- Nhân thế nào thì quả thế ấy:
Nếu ta muốn có quả cam thì ta phải ương hạt giống cam; nếu ta muốn có hạt đậu thì ta phải gieo giống đậu. Không bao giờ ta trong cam mà lại thấy đậu, hay trồng đậu mà lại được cam. Người học đàn thì biết đàn, người học chữ thì biết chữ. Nói một cách khác nhân với quả bao giờ cũng đồng một loại với nhau. Hễ nhân đổi thì quả cũng đổi. Nếu nhân đổi ít thì quả cũng đổi ít, nếu nhân đổi nhiều thì quả cũng đổi nhiều.
Quả còn tùy thuộc ở những duyên phụ, mà trong đạo Phật gọi là tãng thượng duyên hay trợ duyên. Thí dụ: Hạt lúa là nhân; đất, nước, không khí, ánh sáng, nhân công, là trợ duyên. Nếu trồng lúa mà thiếu nước thì hạt lúa bị lép. Khi chúng ta muốn có những trái cam thật to, chúng ta hãy ghép cái mụt cây cam vào gốc cây bưởi. Vậy cái kết quả tốt đẹp là những trái cam to lớn, nhiều nước ấy, không phải chỉ do cái mụt cam, mà còn do gốc bưởi nữa. Cho nên khi chúng ta muốn có cái kết quả như thế nào đó, thì phải hội cho đủ điểu kiện, nghĩa là cho đủ nhân duyên, thì kết quả mới được như ý ta mong muốn. Có nhiều người muốn được kết quả như thế này, nhưng lại không hội đủ nhân duyên như thế ấy, nên kết quả đã sai khác với ý mong muốn của mình, và do đó, họ đâm ra nghi ngờ sự đúng đắn của luật “Nhân quả”.
4.- Trong nhân có quả, trong quả có nhân:
Chính trong nhân hiện tại đã có hàm chứa cái quả vị lai; cũng chính trong quả hiện tại đã có hình bóng của nhân quá khứ. Một sự vật mà ta gọi là nhân, là khi nó chưa biến chuyển, hình thành ra cái quả mà ta quan niệm; một sự vật mà ta gọi là quả là khi nó biến chuyển hình thành ra trạng thái mà ta đã quan niệm. Một vật đều có nhân và quả: đối với quá khứ thì nó là quả, nhưng đối với tương lai thì nó là nhân. Nhân và quả đáp đổi nhau, tiếp nối nhau không bao giờ dứt. Nhờ sự liên tục ấy, mà trong một hoàn cảnh nào, người ta cũng có thể đoán biết quá khứ và tương lai của một sự vật hay một người. Trong kinh thường nói: “Dục tri tiền thế nhân, kim sanh thọ giả thị; yếu tri hậu thế quả, kim sanh tác giả thị” (muốn biết cái nhân đời trước, thì cứ xem quả đời nay đương thọ; muốn biết cái quả về sau thế nào thì cứ xét cái nhân đang tác động trong hiện tại). Cũng như thấy trong kho lẫm, năm nay có chứa lúa (quả) thì biết năm vừa qua có làm ruộng (nhân). Còn muốn biết sang năm trong lẫm có lúa không (quả) thì cứ xem năm nay có làm ruộng hay không (nhân) (trừ trường hợp bỏ tiền ra mua lúa non, thì không kể).
5.- Sự phát triển mau và chậm từ nhân đến quả:
Sự biến chuyền từ nhân đến quả có khi mau khi chậm, chứ không phải bao giở cũng diễn tiến trong một thời gian đồng đểu.
Có những nhân và quả xảy ra kế tiếp nhau, theo liền nhau, nhân vừa phát khởi thì quả đã xuất hiện. Như khi ta vừa đánh xuống mặt trống (nhân) thì tiếng trống liền phát ra (quả), hay khi hai luồng điện âm và dương vừa gặp nhau, thì ánh sáng liền bừng lên.
Có khi nhân đã gây rồi, nhưng phải đợi một thời gian, quả mới hình thành, như từ khi gieo hạt giống cho đến lúc gặt lúa, cần phải có một thời gian ít nhất là bốn tháng.
Có khi từ nhân đến quả cách nhau từng chục năm, như đứa bé mới cắp sách đi học cho đến ngày thành tài, phải qua một thời gian ít nhất là mười năm.
Có khi cần đến một vài trăm năm, hay nhiều hơn nữa, quả mới xuất hiện, chẳng hạn như từ ý niệm giành độc lập của một quốc gia đến khi thực hiện được nền độc lập ấy, cần phải trải qua bao thế kỷ.
Vì lý do mau chậm trong sự phát hiện của các quả, chúng ta không nên nóng nảy hấp tấp mà cho rằng cái luật nhân quả khônghoàn toàn đúng, khi thấy có những cái nhân chưa phát sinh ra quả.
III. PHÂN TÍCH HÀNH TƯỚNG CỦA NHÂN QUẢ TRONG THỰC TẾ
Như các đoạn trên đã nói, nhân quả chi phối tất cà vũ trụ vạn hữu, không có một vật gì, sự gì, động vật hay thực vật, vật chất hay tinh thần, thoát ra ngoài luật nhân quả được.
Đến đây, để có một quan niệm rõ ràng về luật nhân quả, chúng ta hãy tuần tự phân tách hành tướng của nhân quả trong các chủng loại nằm trong vũ trụ:
1.- Nhân quả trong những vật vô tri vô giác:
Nước bi lửa đốt thì nóng, bị gió thổi thì thành sóng, bị lạnh thì đông lại. Nắng lâu ngày thì đại hạn, mưa nhiều thì lụt, gió nhiều thì sanh bão.
2.- Nhân quả trong các loài thực vật:
Hạt cam thì sanh cây cam, cây cam thì sanh trái cam. Hạt ớt thì sanh cây ớt, cây ớt thì sanh trái ớt. Nói một cách tống quát: giống ngọt thì sanh quả ngọt, giống chua thì sanh quả chua, giống đắng thì sanh quả đắng, giống nào thì sanh quả ấy.
3.- Nhân quả trong các loài động vật:
Loài chim sanh trứng; nếu ta gọi trứng là nhân, khi ấp nó thành con là quả; con chim ấy trở lại làm nhân, sanh ra trứng là quả.
Loài thú sanh con, con ấy là quả. Con thú lớn lên trở lại làm nhân, sanh ra con là quả.
4.- Nhân quả nơi con người:
a) Về phương diện vật chất.- Thân tứ đại là do hấp thụ khí huyết của cha mẹ, và do hoàn cảnh nuôi dưỡng. Vậy cha mẹ và hoàn cảnh là nhân, người con trưởng thành là quả và cứ tiếp nối vậy mãi, nhân sanh quả, quả sanh nhân không bao giờ dứt.
b) Về phương diện tinh thần.- Những tư tường và hành vi trong quá khứ tạo cho ta những tánh tình tốt hay xấu, một nếp sống tinh thần trong hiện tại; tư tưởng và hành động quá khứ là nhân, tánh tình, nếp sống tinh thần trong hiện tại là quả. Tánh tình và nếp sồng này làm nhân để tạo ra những tư tưởng và hành động trong tương lai là quả.
Phương diện tinh thần này, hay nói theo danh từ nhà Phật, phương diện nội tâm, là phần quan trọng. Vậy chúng ta phải đặc biệt chú ý đến hành tướng của nó.
i.- Nhân quả của tư tưởng và hành vi không tốt:
a) Tham: Thấy tiền của người nổi lòng tham lam, sanh ra trộm cắp, hoặc giết hại người là nhân; bị chủ đánh đập hoặc chém giết, phải mang tàn tật, hay bị nhà chức trách bắt giam trong khám đường, chịu những điều tra tấn đau khố là quả.
b) Sân: Người quá nóng giận đánh đập vợ con phá hạị nhà cửa, chém giết người không gớm tay là nhân; khi hết giận, đau đớn nhìn thấy vợ con bịnh hoạn, nhà cửa tiêu tan, luật pháp trừng trị phải chịu nhiều điều khổ cực, là quả.
c) Si mê: Người say mê sắc dục, liễu ngõ hoa trường không còn biết sự hay dở, phải trái, đó là nhân. Làm cho gia đình lủng củng, thân thể suy nhược, trí tuệ u ám, là quả.
d) Nghi ngờ: Suốt đời cứ nghi ngờ việc này đến việc khác, ai nói gì cũng không tin, ai làm gì cũng không theo đó là nhân. Kết cuộc không làm nên được việc gì cả, đến khi lâm chung, buông xuôi hai bàn tay trắng, đó là quả.
đ) Kiêu mạn: Tự cho mình là hơn cả, khinh bỉ mọi người, chà đạp nhân phẩm người chung quanh, là nhân; bị người ghét bỏ, xa lánh, sống một đời lẻ loi, cô độc là quả.
e) Nghiện rượu trà: Chung nhau tiền bạc ăn nhậu cho thỏa thuê là nhân, đến lúc say sưa, chén bát ngổn ngang, ghế bàn nghiêng ngã, nhiều khi rầy rà chém giết nhau, làm nhiều điều tội lỗi, phải bị phạt vạ và tù tội là quả.
g) Say mê cờ bạc: Thấy tiền bạc của người muốn hốt về mình, đắm đuối quanh năm suốt tháng theo con bài lá bạc, là nhân; đến lúc của hết, nhà tan, nợ nần vây kéo, thiếu trước hụt sau, là quả.
ii.- Nhân quả của tư tưởng và hành vi tốt:
Như trên chúng ta đã thấy, những tư tưởng hành vi xấu xa, tạo cho con người những hậu quả đen tối, nhục nhã, khd như thế nào, thì những tư tưởng và hành vi đẹp đẽ tạo cho con người những hậu quả xán lạn, vinh quang và an vui cũng như thế ấy.
Người không có tánh tham lam, bỏn xẻn thì tất không bị tiền của trói buộc, tất được thảnh thơi. Người không nóng giận, tất được sống trong cảnh hiền hòa, gia đình êm ấm; người không si mê theo sắc dục, tất được gia đình kính nể, vợ con quí chuộng, trí tuệ sáng suốt, thân thể tráng kiện, người không hay ngờ vực, có đức tin, thì hăng hái trong công việc, được người chung quanh tin cậy và dễ thành tựu trong đường đời, người không kiêu ngạo thì được bạn bè quí chuộng, niềm nỡ tiếp đón, tận tâm giúp đỡ khi mình gặp tai biến. Người không rượu chè, cờ bạc thì không đến nỗi túng thiếu, bà con quen biết kính nể yêu vì ... Những điều trên này, tưởng không cần phải nói nhiều, quí độc giả cũng thừa biết. Hằng ngày, quanh chúng ta, những cảnh tượng nhân và quả ấy diễn ra không ngớt. Mở một tờ báo hằng ngày ra, chúng ta thấy ngay những bài học nhân quả: trước vành móng ngựa kẻ này bị hai năm tù vì tội ăn trộm; kẻ kia giết người cướp của bị lên máy chém; kẻ nọ say mê cờ bạc thụt két bị tịch biên gia sản; cô kia ngoại tình bị chồng chém v.v...
Nói một cách tổng quát, về phương diện vật chất cũng như tinh thần, người ta gieo thứ gì thì gặt thứ ấy. Người Pháp có câu: “Mỗi người là con đẻ của công nghiệp mình” (chacun est le fils de son oeuvre).
IV. LỢI ÍCH DO SỰ HIỂU BIẾT LUẬT NHÂN QUẢ ĐEM LẠI CHO CHÚNG TA
Khi chúng ta đã biết rõ luật Nhân quả, nhưng nếu chúng ta không đem nó ra ứng dụng trong đời sống của chúng ta, thì sự hiểu biết ấy trở thành vô ích. Cho nên chúng ta đã hiểu rõ luật nhân quả thì phải cố gắng thật hành cho được bài học ấy trong mọi trường hợp. Nếu chúng ta biết đem luật nhân quả làm một phương châm hành động và suy luận, thì chúng ta sẽ thuộc lượm được rất nhiều lợi ích:
1.- Luật nhân quả tránh cho ta những mê tín dị đoan, những tin tưởng sai lầm vào thần quyền:
Luật nhân quả cho chúng ta thấy được thực trạng của sự vật, không có gì là mơ hồ, bí hiểm. Nó vén lên tất cả những cái màn đen tối, phĩnh phờ của mê tín, dị đoan đang bao trùm sự vật. Nó cũng phủ nhận luôn cái thuyết chủ trương vav do một vị Thần sinh ra và có uy quyền thưởng phạt muôn loài. Do đó, người hiểu rõ luật nhân quả sẽ không đặt sai lòng tin tưởng của mình, sẽ không cầu xin một cách vô ích, không ỷ lại thần quyền, không lo sợ, hoang mang.
2.- Luật nhân quả đem lại lòng tin tưởng vào chính con người:
Khi đã biết cuộc đời là do nghiệp nhân của chính mình tạo ra, mình là người thợ tự xây dựng đời mình, mình là kẻ sáng tạo, mà không tin tưởng ở mình thì còn tin tưởng ở ai nữa? Lòng tự tin ấy là một sức mạnh vô cùng quí báu, làm cho con người dám hoạt động, dám hy sinh, hăng hái làm điều tốt, vì những hành động tốt đẹp ấy, ho biết sẽ là những cái nhân quí báu đem lại những kết quả đẹp đẽ.
3.- Luật nhân quả làm cho chúng ta không chán nản, không trách móc:
Người hay chán nản, hay trách móc, là vì đã đặt sai lòng tin của mình, là vì đã có thói quen ỷ lại ở kẻ khác, là vì đã hướng ngoại. Nhưng khi đã biết mình là động lực chính, là nguyên nhân chính của mọi thất bại hay thành công, thì còn chán nản trách móc ai nữa? Đã biết mình là quan trọng như thế chỉ còn lo tự sửa mình, lo thôi gieo nhân xấu để khỏi phải gặt quả xấu, thôi tạo giống ác để khỏi mang quả ác.
V. MỘT THÁI ĐỘ CẦN THIẾT TRONG KHI ÁP DỤNG LUẬT NHÂN QUẢ: NGHĨ ĐẾN QUẢ TRƯỚC KHI GÂY NHÂN
Chúng ta đã thấy rõ những ích lợi do sự hiểu biết luật nhân quả đem lại cho mỗi chúng ta. Đến đây chúng tôi muốn dành riêng một đoạn, để nhấnn mạnh vào một điểm vô cùng quan trọng, mà nếu chúng ta biết triệt để khai thác trong khi áp dụng luật nhân quả, thì lợi ích sẽ vô cùng rộng lớn. Đó là trong mọi hành động của chúng ta, bao giờ cũng nên nghĩ đến quả, mà trồng nhân. Những người không nghĩ đến quả mà cứ gieo nhân bừa bãi, thì thế nào cũng gặt nhiều tai họa, gây tạo cho mình nbh điều phiền phức, có khi làm ung độc cả cuộc đời, cả sự sống. Chỉ có những người nông nỗi, liều lĩnh mới không nghĩ đến ngày mai, mới sống qua ngày. Chứ những người sáng suốt làm việc có kế hoạch khôn ngoan, thì bao giờ cũng nhắm cái đích, rồi mới đi tới, hình dung rõ ràng cái quả rồi mới trồng nhân.
Câu chuyện sau đây có thể chứng minh một cách hùng hồn ý nghĩa nói trên:
Xưa có một vị Hiền giả nêu ở giữa chợ một tấm bảng như sau:
“Ai chịu trả một ngàn lượng vàng,
Tôi sẽ bán cho một bài học”.
Tấm bảng treo đã nhiều ngày mà không ai thèm hỏi đến. Một hôm, một vị vua, nhân đi dạo chơi ngang qua chợ, trông thấy, động tánh hiếu kỳ, mới đến chỗ Hiền giả, lấy một ngàn lượng vàng, hỏi mua bài học ấy.
Sau khi nhận đủ số vàng, nhà Hiền triết đưa bài học ra. Bài học vỏn vẹn chỉ có một câu giản dị như sau:
“Phàm làm việc gì, trước phải xét kết quả của nó về sau”.
Các quan tùy tùng thấy vậy, xầm xì với nhau: “Nhà vua bị gạt! Một câu nói như thế, có hay ho gì đâu mà phải mua đến một ngàn lượng vàng?”
Trong lúc đó, nhà vua cũng phân vân, không hiểu bài học giản dị ấy, tại sao lại đắt giá đến thế?
Khi về cung, nhà vua cứ suy nghĩ mãi về câu nói ấy. Trong lúc ấy như mọi đêm khác, trong cung đều có mở yến tiệc linh đình, cung phi mỹ nữ ca hát suốt đêm, để nhà vua mặc tình vui chơi với tửu sắc. Nhưng hôm nay, vì bị bài học của nhà Hiền triết ám ảnh, bắt vua suy nghĩ:
“Nếu ta say mê tửu sắc mãi như thế này, thì kết quả sẽ ra sao? Thân thể sẽ suy nhược tinh thần tiều tụy và mau chết, việc triều đình phế bỏ, rồi sẽ đi đến chỗ mất nước, dân chúng trở thành nô lệ cho ngoại bang, đời đời nhục nhã và khổ đau! ...”
Nhận thấy rõ cái kết quả xấu xa nghuy hiểm của tửu sắc như thế, vua liền truyền lịnh dẹp ngay yến tiệc, ca hát, và bd từ đó vua lo chỉnh đốn lại nước nhà, sửa sang binh bị ...
Hai năm sau, một nước láng giềng đem binh đến cướp nước, nhà vua nhờ sớm giác ngộ, lo xây dựng cho nước được hùng cường, nên đã đuổi lưi được quân giặc. Bấy giờ nhà vua mới tự bảo:
“Bài học của nhà Hiền triết quý giá lắm! Một ngàn lượng vàng còn rẻ”.
Nhà vua bèn ra lịnh chép bài học ấy, dán khắp tất cả mọi nơi, cho đến mâm cơm, chén nước cũng truyền khắc vào.
Một hôm có người trong hoàng thân muốn tiếm đoạt ngôi vua, nên thuê quan Ngự y một số tiền lớn để thừa lúc vua đau, tráo dâng thuốc độc. Lãnh tiền xong, quan Ngự y sau khi chế thuốc độc xong, lén rót vào chén, định dâng lên vua uống, nhưng khi nhìn thấy mấy chữ khắc trong chén:
“Phàm làm việc gì, trước phải xét kết quả của nó về sau”.
Quan Ngự y sực tỉnh và suy nghĩ: “Tội thí vua này, nếu bị phát giác ra, sẽ bị tru di tam tộc, chứ không phải tầm thường”. Quan Ngự y sau khi xét kết quả việc làm của mình gớm ghê như thế, nên đã đổ chén thuốc và thú tội với nhà vua. Nhà vua thấy quan Ngự y đã biết ăn năn hối cải như thế, nên rộng lòng ân xá và còn ban cho một số tiền bạc to tát nữa. Nhờ bài học này, nước nhà khỏi mất, dân tộc khỏi làm nô lệ cho ngoại bang, nhà vua khỏi chết, nên vua cho bài học này là vật báu vô giá.
Vậy chúng ta cũng nên đem bài học này áp dụng vào mọi công việc hằng ngày của chúng ta. Khi chúng ta ham mê cờ bạc, nên nhớ cái kết quả của nó sẽ là vong gia bại sản, thiếu trước hụt sau, nợ nần đòi hỏi. Khi lăm le muốn gần tửu sắc, hãy xét đến kết quả của nó sẽ làm thân thể hao mòn, đa mang tật bệnh, danh giá chôn vùi. Khi nóng giận muốn làm hại người, nên xét cái kết quả của nó về sau là “oan oan tương báo”, hại người tất sẽ bị người hại lại. Khi móng niệm tham lam tiền bạc của cải của người, nên xét kết quả về sau là tù tội gông xiềng v.v...
Tóm lại, nếu chúng ta biết đem bài học nhân quả này mà áp dụng trong tất cả mọi công việc làm hằng ngày của đời mình, thì chúng ta sẽ thấy tánh tình và hành vi của chúng ta mỗi ngày cải tiến, các việc sái quấy sẽ giảm bớt, và từ địa vị người vượt lên địa vị thánh, hiền, không phải là điều không làm được.
http://www.tangthuphathoc.com/nhanqua/nhonquanghiepvaluanhoi-01.htm
NHÂN QUẢ LUÂN HỒI TRONG SÁU CÕI PHÀM
1.- Địa ngục: Tạo nhân sân hận, độc ác làm nhiều điều tội lỗi vừa hại mình vừa hại người, phải luân hồi vào địa ngục, chịu đủ điều khổ sở.
2.- Ngạ quỉ: Tạo nhơn tham lam, bỏn xẻn, không biết bố thí giúp đỡ người. Trái lại, còn mưu sâu kế độc, để cướp đoạt của người, sau khi chết luân hồi làm ngạ quỉ.
3.- Súc sinh: Tạo nhân si mê, sa đọa, theo thất tình lục dục, tửu, tài, sắc, khí, không xét hay dở, tốt xấu, chết trồi luân hồi làm súc sinh.
4.- A tu la: Gặp việc nhân nghĩa thì làm, gặp việc sái quấy cũng không tránh, vừa cang trực, mà cũng vừa độc ác. Mặc dù có làm những điều phước thiện, nhưng tánh tình hung hăng nóng nảy vẫn còn, lại thêm tà kiến, si mê, tin theo tà giáo. Tạo nhân như vậy, kết quả sẽ luân hồi làm A tu la, gặp vui sướng cũng có mà buồn khổ cũng nhiều.
5.- Loài người:
a) Biết giữ gìn lòng nhân từ, không sát nhân hại vật, không làm những điều đau khổ cho người.
b) Không tham lam trộm cướp tiền của, từ vật lớn như ngọc, ngà, châu báu đến vật nhỏ như cây kim, sợi chỉ.
c) Không trêu hoa ghẹo nguyệt, dâm loạn vợ con, phá hoại gia cang của người.
d) Không nói lời dối trá, xảo quyệt, thêm bớt, đâm thọc, không nói lời cộc cằn, thô tục.
đ) Không rượu trà say sưa, không làm những điều lầm lỗi. Tu nhân ngũ giới như vậy, đời sau sẽ luân hồi trở lại làm người, cao quý hơn muôn vật.
6.- Cõi trời: Bỏ 10 điều ác: không sát sinh, hại vật, không trộm cướp, tà dâm, không nói lời đâm thọc, hung ác, dối trá, thêu dệt, không tham dục, giận hờn và si mê. Trái lại, còn làm 10 điều lành là: phóng sinh, bố thí, giữ hạnh trinh tiết, nói lời chắc chắn, đúng lý và nhu hòa, trau giồi đức hỷ xả, từ bi và trí huệ. Tu nhơn thập thiện như vậy, thì sau khi chết được sanh lên cõi trời, nhưng nên nhớ cõi trời này cũng còn ở trong vòng phàm tục, chịu cảnh sinh tử Luân hồi.
Muốn thoát ra ngoài cảnh sinh tử luân hồi và đến bốn cõi thánh thì phải tu nhân giải thoát.
http://www.tangthuphathoc.com/nhanqua/nhonquanghiepvaluanhoi-03.htm
LUÂN HỒI SINH TỬ
“Có sinh ắt có tử
Tử- sinh và sinh- tử,
Sinh sinh, tử tử hoài
Kiếp luân hồi đau khổ”
Một số người cho rằng: Khi con người được sinh ra thì cứ sống và làm việc để được nổi tiếng, để có được cuộc sống giàu sang, gia đình hạnh phúc và con cháu đầy đàn. Đối với họ, đây là mục đích cuối cùng của một kiếp người. Khi họ chết đi là kết thúc một đời người, kết thúc một cuộc sống vật chất mà họ đã phải vất vả, gian nan tạo nên, họ không bao giờ nghĩ đến một điều là tại sao mình được sinh ra và sinh ra để làm gì ngoài cuộc sống vật chất đầy gian nan vất vả như thế. Đối với tôi, cuộc đời chúng ta sinh ra là để học hỏi và tiến hóa, nên khi ta về già, ta hiểu được chết là mở ra một chân trời mới, một cuộc sống mới tốt đẹp hơn để ta có cơ hội học hỏi, tiến hóa và để được giác ngộ hơn nữa.
Nếu chúng ta cứ nghĩ rằng chết là hết thì chúng ta sẽ phải quay cuồng theo bánh xe luân hồi sinh tử bởi vì chúng ta sống và làm việc cho hiện tại mà chẳng nghĩ đến hậu quả của kiếp sau, chúng ta cứ tạo ra vô số nghiệp mà không hề hay biết và không hề nghĩ rằng mình sẽ phải trả cho những kiếp kế tiếp. Chúng ta phải mất bao nhiêu thời gian quý báu chỉ để phục vụ cho cuộc sống vật chất nhiều đau khổ, lo âu với bao bệnh tật, hiểm nguy và vô vàn điều phức tạp trên thế gian hiện tại này.
Một ví dụ điển hình trong vô số những ví dụ về kiếp sống luân hồi mà trải qua nhiều đời, nhiều kiếp mà con người chúng ta vẫn không thoát ra được: Khi đôi trai gái yêu nhau, họ thường bỏ ra rất nhiều thời gian và tiền bạc để tìm hiểu nhau. Đôi khi hiểu lầm thì họ lại giận hờn nhau, rồi lo lắng, suy tư và thật đau khổ trong lòng. Họ phải sống trong lo sợ phập phồng trong suốt thời gian quen biết nhau để được đi đến hôn nhân một cách trọn vẹn. Sau khi cưới nhau thì những đứa con lại chào đời. Niềm vui hạnh phúc mặc dù được nhân lên gấp bội nhưng sau đó là bao nỗi lo toan vất vả. Cuộc sống càng ngày càng khó khăn vì phải nuôi dạy các con khôn lớn.Đặc biệt là người phụ nữ phải gánh nặng hai vai với bao bổn phận và trách nhiệm đối với chồng, con, gia đình cũng như họ hàng hai bên. Trong giai đoạn hiện nay, phụ nữ còn phải tham gia các hoạt động xã hội, nên thời gian ở nhà không được bao nhiêu mà phải gồng gánh bao nhiêu công việc gia đình. Người chồng cũng phải làm việc nhiều hơn để bảo đảm cuộc sống cho vợ con đủ ăn đủ mặc, cùng vợ nuôi dạy đàn con nên người. Ngày nay, để nuôi được một đứa con khôn lớn và thành đạt thì rất phức tạp chứ không đơn giản như ông bà chúng ta ngày xưa, sinh con đàn cháu đống mà đứa nào cũng thành đạt, nên nhà nên cửa và có cuộc sống tương đối khá giả. Còn bây giờ thì khác hẳn, đứa trẻ được sinh ra đã khiến cho cha mẹ phải vất vả với bao việc phải lo toan như: quần áo, thuốc thang, ăn uống, học hành...Vì thương con vô bờ bến nên cha mẹ sẵn sàng chìu theo ý con trẻ đến mức thương tâm ngay cả việc nhịn ăn ngon, mặc đẹp để nhường phần cho con và để con mình không thua kém bạn bè. Ở VN, đứa trẻ vừa tròn bốn tháng thì người mẹ phải đi làm tiếp tục. Vừa trông con, vừa đi làm và bao nhiêu công việc gia đình khiến cho hai vợ chồng càng này càng vất vả. Khi đứa trẻ lên 2-3 tuổi thì phải cho đi nhà trẻ, mẫu giáo để chúng theo kịp thời đại và để vợ chồng an tâm công tác. Chi phí chi tiêu cứ tăng dần lên theo sự lớn khôn của con cái khiến cha mẹ không sao thanh thản, lúc nào cũng tất bật để lo kiếm tiền cung phụng cho gia đình, cho những đứa con còn non dại và giáo dục chúng nên người. Cha mẹ còn đưa đón con đi học, lo lắng cùng con khi phải trải qua những kỳ thi căng thẳng, lo lắng khi con cái mắc phải những chứng bệnh hằng ngày v.v..và v..v...
Như vậy, cha mẹ phải lo cho con cái từ lúc tấm bé đến học hết lớp 12, rồi lên đại học và tìm kiếm việc làm cho chúng nó nữa. Nhưng thời nay thì việc làm không phải dễ kiếm, để lo cho con mình có một địa vị trong xã hội muôn hình vạn trạng này, thì cha mẹ càng phải vất vả hơn. Khi con cái đã có nghề nghiệp rồi thì cha mẹ vẫn chưa an lòng vì con mình chưa có cuộc sống gia đình riêng. Thế là cha mẹ tiếp tục phải lo dựng vợ gã chồng cho con cái, có khi còn phải cho vốn liếng làm ăn nữa. Con cái đã an bề gia thất thì cha mẹ lại phụ nuôi thêm đàn cháu nhỏ. Nhiều bậc cha mẹ chẳng được nghỉ ngơi vì phải giữ cháu và đưa đón cháu đi học mỗi khi cha mẹ chúng đi làm về trễ. Lúc về già thì có rất nhiều việc xảy ra như: bệnh tật triền miên, con cái ở riêng không ai chăm sóc hoặc ở chung thì không hợp ý gây bất hòa, do tuổi già sức yếu cha mẹ lại phải lệ thuộc vào con cái....cho đến lúc cha mẹ phải trở về nơi chín suối để kết thúc một kiếp người nơi trần thế.
Cuộc sống với niềm vui ít ỏi và nhiều khổ đau như thế cứ xoay vòng từ đời này sang đời khác chính là cuộc sống luân hồi sinh tử. Con người sống trong cuộc sống ấy ít nhiều gì cũng tạo nên nghiệp lực thông qua lời nói, việc làm, hành vi ứng xử trong cuộc sống..... Nếu đã gieo thì phải trả trong kiếp này hoặc kiếp khác. Con người sinh ra được sung sưóng hay khổ đau là do mình tạo phước hay tạo nghiệp từ kiếp trước. Thầy chúng ta có dạy:
“ Không có cái gì trên đời này tự nhiên mà có cả”
“ Chúng ta có thể dùng phước đức để tẩy xóa bớt nghiệp lực của mình”.
Các bạn QT-STH qúy mến!
Chúng ta rất may mắn gặp được một chân sư cao cả, được Thầy mở LX và hướng dẫn cách tu hành để được giải thoát kiếp sống luân hồi sinh tử đầy đau khổ này. Chúng ta là những người có khả năng giải thoát cho bản thân mình nhờ vào sự chỉ dạy của Thầy Cô thông qua ngành QT-STH đầy huyền diệu. Tôi tin rằng với một ý chí, nghị lực kiên cường và niềm tin mãnh liệt vào ngành QT-STH, chúng ta sẽ nhận ra được con đường giải thoát. Chúng ta hãy tập luyện và thực hành đúng những gì Thầy Cô chỉ dạy thì chúng ta sẽ được giác ngộ, sẽ thoát được khỏi kiếp sống luân hồi: Sinh, Lão, Bệnh, Tử trong một ngày không xa.
Út Trà Vinh
Tháng 11, 2007

Nhân dịp Đại lễ Phật đản 2010, các tăng ni phật tử của Giáo hội Phật giáo Thừa Thiên - Huế đã cùng nhau làm tác phẩm “7 đóa sen hồng nâng gót tịnh” gồm 7 bông sen “khổng lồ” được thả trên dòng sông Hương, biểu trưng cho 7 bước đi của đức Phật.




