Saturday, June 12, 2010

Tại thầy nóng quá

Tác giả: Thích Chân Tính

Ðược tin thầy gọi, tôi đi vội lên nhà khách. Bước vào phòng tôi hơi ngạc nhiên thấy ngoài thầy ra còn có hai chú tiểu ngồi đó. Sau khi xá chào thầy, thầy chỉ tay về phía chiếc ghế đối diện với hai chú tiểu và bảo tôi ngồi xuống. Tôi đang phân vân chưa hiểu chuyện gì thì thầy lên tiếng:

- Từ nay về sau tôi giao hai chú này cho thầy trông nom, uốn nắn. Thầy nhớ trách nhiệm này chứ?

- Dạ nhớ.

Quay qua hai chú, thầy nhấn mạnh:

- Mấy chú có nghe tôi dặn không?

Hai chú khép nép thưa:

- Mô Phật, nghe.

- Sáng nay hai chú này có chuyện xô xát lẫn nhau. Bây giờ thầy điều tra xem sự việc xảy ra thế nào? Ai phải ai trái rồi thuật lại cho tôi rõ.

Dứt lời thầy đứng dậy và bước ra khỏi phòng. Chúng tôi cũng đứng dậy tiễn thầy.

Từ trước tới nay, những chuyện xích mích xảy ra giữa hai chú Lâm và Ly này, tôi cũng đã khuyên nhiều lần nhưng đều vô hiệu quả. Hôm nay trước mặt hai chú, sư phụ chính thức giao quyền dạy dỗ hai chú cho tôi, tôi thấy mình có thêm sức mạnh về uy quyền. Tôi đưa mắt nhìn hai chú một lượt để thị uy rồi với giọng đàn anh tôi nói:

- Sao, bộ mấy chú định quậy nữa phải không?

Hai chú ngồi im re, mặt cúi xuống. Thấy vậy tôi tiếp:

- Ðây là nơi trang nghiêm thanh tịnh chứ có phải võ đài hoặc nơi chợ búa đâu mà mấy chú cãi nhau, đánh nhau ỏm tỏi như vậy. Thật là quá lắm, quá lắm! Ở chùa mà không biết luật nghi, không kiêng nể ai gì hết ráo! Bây giờ chú Lâm hãy trình bày cho tôi rõ câu chuyện xảy ra giữa hai người như thế nào để tôi còn biết đường phân xử.

Tôi ngồi nghiêm nét mặt ra vẻ như một quan tòa. Tuy vậy, nhìn gương mặt bình thản của chú, tôi biết những lời nói và cử chỉ thị uy của mình vẫn chưa có hiệu quả bao nhiêu. Chú ung dung trả lời:

- Thưa thầy, sáng nay, sau khi quét dọn chính điện xong, con trở về phòng và thấy lọ mực để trên bàn bị đổ. Lúc con vừa vào phòng thì thấy thằng nhóc này đi ra.

- Nè, nè, trước mặt tôi chú phải ăn nói nghiêm túc lễ phép nghe chưa. Chú có biết cách xưng hô với người trên kẻ dưới như thế nào không?

- Dạ biết.

- Biết sao đâu, chú nói tôi nghe thử nào?

- Dạ, lớn kêu là huynh, nhỏ kêu là đệ.

- Tốt, tiếp tục trình bày.

- Thấy lọ mực đổ, con biết chỉ có cái thằng đệ này chứ...

- Ơ, ơ... lại ăn nói hàm hồ nữa rồi. Ðệ là đệ chứ sao lại thằng đệ. Nếu không gọi đệ thì gọi là chú, nghe chưa?

Chú gật đầu rồi tiếp:

- Thấy vậy con kêu chú lại hỏi, nhưng chú cứ một mực chối là không có làm đổ. Nhìn mấy cuốn sách bị mực làm cho loang lổ, con tức quá tát cho chú một bạt tay.

- Úi chà, như vậy là nóng nảy quá không được. Chưa gì đã gây chiến rồi. Tôi xen vào.

- Dạ, nhưng chú đã đưa tay ra đỡ nên không trúng. Thấy đánh tay không được, tức quá con giơ chân lên đá thật mạnh vào mình chú một cái.

- Bậy, bậy, chơi đòn nguy hiểm như vậy thì chết người ta rồi còn gì! Tôi lắc đầu than.

- Dạ, nhưng chú đã nhanh tay chụp chân con lại và xô con một cái ngã chổng kềnh xuống đất.

Ðáng đời, ai biểu lớn ăn hiếp nhỏ. Tôi cười thầm.

- Tội nghiệp quá! Té có đau không?

- Dạ hơi ê ẩm một tí!

- Thôi được, không bể đầu là tốt rồi. Cứ tự nhiên kể tiếp.

- Lúc đó, lửa giận trong người con sôi lên sùng sục ...

- Nói ngắn gọn thôi, không cần văn chương lúc này – tôi chỉnh – chỉ cần nói giận quá là tôi hiểu rồi, khỏi phải nói sôi sùng sục gì cả.

- Dạ, lúc đó con giận quá vớ ngay chiếc dép phang cho chú một cái.

Trời đất! Chơi tay, chơi chân không lại, bây giờ còn dở trò chơi dép nữa ta.

- Ðúng là giận quá mất khôn rồi. Chú có biết là phang như vậy nguy hiểm lắm không?

- Dạ, nhưng chú ấy lại chụp được chiếc dép và phang lại trúng ngay trán con.

Chú đưa tay chỉ vết bầm nơi trán. Tôi cố nín cười và nhủ thầm: Tội nghiệp không! Lớn đánh nhỏ không lại còn bị nhỏ cho đo đất và choảng u đầu nữa. Tôi động lòng thương nói:

- Chú cầm đỡ lọ dầu cù là này xoa lên chỗ bầm. - Tôi đưa tay vào túi áo lấy lọ dầu nhưng lại rút tay ra không – À quên, vừa nãy để trong phòng không có đem theo.

- Cám ơn lòng tốt của thầy.

- Không có chi, thương người như thể thương thân. Chú đau cũng như tôi đau tiếc chi chút dầu. Thôi bây giờ chú tiếp tục trình bày đi.

- Lúc chiếc dép chạm vào trán con thấy nháng lửa một cái, tiếp theo đó ba bốn ông sao hiện ra chớp chớp nhảy múa trước mắt. Ðau quá con đưa tay ôm đầu rồi lom khom đứng dậy định trả đũa thì chú ấy đã phi thân mất tiêu rồi. Buồn cho thân phận, giận vì u đầu, con liền thẳng đến phòng thầy trụ trì trình bày sự việc.

Lớn đánh nhỏ mà không biết xấu hổ còn đi thưa nữa. Ðã vậy, mở miệng ra còn bày đặt nói văn chương.

- Thôi được, phần của chú coi như tạm xong. Bây giờ tới lượt chú Ly cứ thật thà mà khai báo. Có sao nói vậy, bất tăng bất giảm.

- Dạ thưa thầy, sáng nay khi vào phòng chú Lâm con đã thấy lọ mực đổ trên bàn rồi.

- Tại sao chú vào phòng người ta?

- Dạ con đem trả cuốn truyện.

- Truyện gì?

- “Chiến tranh và hòa bình” của Lép Tonxtôi. Lúc chú Lâm vào phòng thấy lọ mực đổ và kêu con lại hỏi. Con thật thà trình bày đầu đuôi chú nghe, nhưng chú không tin và cứ khăng khăng đổ lỗi cho con và còn đánh con nữa.

Tôi quay qua chú Lâm hỏi:

- Chú đã coi truyện “Chiến tranh và hòa bình” chưa?

- Dạ rồi.

- Vậy mà hai người đã không hòa bình lại còn gây chiến tranh nữa. Coi truyện như vậy thật là vô ích quá.

Chú Ly nhanh miệng xen vào:

- Dạ, con cũng muốn hòa bình lắm chứ nhưng vì chú Lâm gây chiến trước, bắt buộc con phải tự vệ. Dù sao cuộc chiến tranh vệ quốc của con vẫn là chính nghĩa.

- Chà, hai người đánh nhau mà kêu là “vệ quốc”. Vệ cái con khỉ mốc, vệ cái thân của chú còn chưa xong nữa ở đó mà bày đặt vệ quốc. Thế chú có biết nguyên do nào mực đổ không?

- Dạ không.

- Lẽ ra chú Lâm đánh chú như vậy, chú phải lên thưa với thầy mới đúng. Tại sao chú đánh lại như thế?

- Dạ con đâu có đánh, con chỉ đỡ theo thói quen đó thôi. Nếu con thực tâm đánh thì chú ấy không còn cái răng ăn cháo nữa.

- Mày nói cái gì?

Mặt chú Lâm xám ngắt, đứng phắt dậy định đánh chú Ly.

- Nè, nè, chuyện đâu còn có đó, chú nóng nảy như vậy là không được, ngồi xuống đi. – Quay qua chú Ly tôi tiếp – Còn chú nữa, từ nay tôi cấm chú không được ăn nói hỗn láo như vậy nghe chưa! Dù sao người ta cũng lớn hơn mình, tu trước mình, mình phải nể trọng một tí chứ! Bây giờ chú phải trả lời thật cho tôi biết, có phải chú có võ không?

- Dạ, phải.

- Võ gì?

- Thiếu Lâm Tự.

- Tại sao lúc vào chùa chú không kê khai lý lịch cho rõ để người ta biết mà phòng ngừa?

- Vì con thấy không cần thiết.

- Thôi được, thế chú nói là không làm đổ mực. Vậy thì ai làm đổ, trong khi một mình chú vào phòng người ta?

- Dạ con cũng không rõ nữa.

- Vô lý quá! Chú xuất gia rồi mà còn nói dối.

- Con xin thề danh dự với thầy – chú giơ tay lên – nếu con nói dối cho quỷ sứ bắt hồn con ngay tức khắc.

- Thôi, thôi, bỏ tay xuống đi, thề với thốt cái gì. Quỷ sứ đến bắt chú không được lại bị đo ván nữa, mất công tôi phải xử thêm một vụ khác. Chú có biết người phạm lỗi mà dám nhận lỗi là đáng phục, đáng quý nhường nào không?

- Nhưng con không phạm lỗi mà bắt con phải nhận thì con đâu có chịu.

- Chú có biết thế nào là nhẫn nhục không?

- Dạ biết.

- Biết làm sao chú nói tôi nghe thử nào?

- Nhẫn là điều dù có họ nói không

Không nói có mặc tình ai thêu dệt

Con đã tu thì chi chi nhịn hết

Nhịn nhịn hoài, nhịn nhịn mãi không thôi.

- Giỏi, thuộc lòng như vậy là rất tốt. Tuy nhiên tôi nói cho chú rõ, người tu chỉ quý ở chỗ thực hành đúng chứ không ai chuộng cái lối học như két đâu. Từ nay trở đi tôi cấm chú không được giở võ nghệ ra nữa. Nếu có gì oan ức chú cứ lên thưa lại cho tôi rõ để tôi phân xử. Lần sau còn tái phạm đánh nhau nữa tôi sẽ phạt quỳ một cây nhang nửa thước. Chú nghe rõ chưa?

- Dạ rõ.

Quay sang chú Lâm tôi nói:

- Còn chú nữa! Dù sao chú cũng phải tỏ ra mình là bậc đàn anh một chút chứ. Chưa chi đã ẩu đả với đàn em như vậy thì làm sao nó phục mình cho được! Chú có biết trong vấn đề này chú có hai điểm đáng trách không? Thứ nhất chú để lọ mực trên bàn mà không đậy nắp lại. Thứ hai chưa rõ nguyên nhân nào lọ mực đổ mà chú đã vội vã đánh người. Giả sử nếu chú đậy nắp lọ mực cẩn thận sau khi xài xong, cho dù lọ mực có đổ thì mực cũng không thể chảy ra ngoài được, mực không chảy thì đâu có chuyện xô xát như thế. Chú có thấy rõ cái hậu quả của sự bất cẩn chưa? Còn việc lọ mực đổ có nhiều nguyên nhân chứ đâu phải gán ép một cách vô căn cứ cho chú Ly được. Nếu chú thấy rõ chú Ly làm đổ mà chú ấy chối thì mình có quyền la rầy hoặc bắt đền. Ðằng này chú chỉ thấy người ta trong phòng đi ra rồi đoán mò đâu có được. Có thể là con mèo hoặc con chuột nào đó chạy ngang làm đổ thì sao! Thế nên bất cứ một việc gì mình phải tìm hiểu cho rõ ngọn nguồn rồi hãy kết luận. Nóng nảy chỉ đem đến sự thất bại lớn lao và hậu quả không thể lường được. Chú thấy tôi từ trước đến giờ có nóng nảy việc gì không?

- Dạ không.

- Tại sao chú không noi gương ấy mà học tập?

- Dạ, từ nay trở đi con sẽ cố gắng học tập theo gương của thầy.

- Tốt. Nếu lần sau chú tái phạm nữa tôi sẽ phạt quỳ cây nhang một thước.

Mắt chú Lâm trợn lên nhìn tôi:

- Sao chú Ly nửa thước mà con tới một thước lận?

- Lớn rồi phải gấp đôi.

- Trước pháp luật mọi người đều bình đẳng mà.

- Một thước mốt.

- Thầy xử ép con quá!

- Một thước hai.

- Dạ .........

- Một thước ba. Càng khiếu nại càng tăng.

- Thôi con không dám khiếu nại nữa. Xin thầy hoan hỷ lượng thứ mà hạ xuống mức cũ cho con nhờ.

- Quân tử nhất ngôn, không nói đi nói lại.

Thấy chú im lặng, tôi hỏi:

Sao còn ai khiếu nại gì nữa không?

Chú Lâm lên tiếng:

- Dạ không.

- Tốt, cho phép giải tán.

- Dạ khoan, nhân tiện có thầy đây con xin hỏi việc này.

- Ðược, cứ hỏi.

- Thưa thầy, dù sao con cũng là kẻ hậu sinh khả úy – tôi nhìn chú và rủa thầm: Dốt chữ mà còn bày đặt xổ nho nữa – tuổi đời tuổi đạo còn non nớt, trình độ Phật pháp lại càng không thể so sánh với thầy được. Do đó, hôm nay con xin phép trình bày với thầy việc này. Sau khi nghe xong xin thầy cho con biết là con có phạm giới hay không?

- Ðược, cứ tự nhiên.

- Dạ thưa thầy, đêm qua có một cô gái ôm con.

- Thôi thôi! Vậy là đủ hiểu rồi! Ðể con gái ôm là quá lắm rồi! Quá lắm rồi!

- Dạ thưa.........

- Không có dạ với thưa gì nữa cả. Chú có biết Tăng là gì không?

- Dạ biết.

- Biết làm sao hả? Nói mau!

- Tăng là thanh tịnh ạ.

- Tại sao chú lại để trò bất chính xảy ra nơi cửa Thiền?

- Nhưng con.........

- Không có nhưng gì cả. Tại sao đêm khuya thanh vắng chú dắt gái vào phòng?

- Nhưng con có dắt gái vào phòng đâu!

- Láo! Chú làm như chú đẹp trai nhất thiên hạ, đến nỗi các cô gái phải mò vào phòng chú không bằng!

- Con xin thề danh dự.

- Không thề với thốt gì cả. Chú đừng hòng ngụy biện với tôi. Nếu chú không tình ý gì thì ai mở cửa cho người ta vào phòng?

- Thật tình con không có mở.

- Thôi đừng có loanh quanh lắm lời. Chẳng lẽ tiên trên trời bay xuống phòng chú à? Giả sử có đúng như vậy tại sao chú không la lên, lại để cho cô ta ôm? Rõ là dấu đầu lòi đuôi.

- Lúc cô ta vừa ôm, con liền giật mình tỉnh giấc và mới rõ là mình nằm mơ.

- Trời đất! Tại sao nãy giờ chú không nói sớm?

- Dạ tại thầy nóng quá!

-!?!? ..........


http://www.chuahoangphap.com.vn/literature.php?id=21

Nghệ thuật giữ sắc đẹp

Lời Phật dạy cho thấy “nghệ thuật giữ sắc đẹp” được nói đến trong đạo Phật không gì khác là một nếp sống hồn nhiên, vô tâm, vô tư, cái gì đến thì biết là đến cái gì đi thì rõ là đi, không nuối tiếc, không vọng tưởng, “ưng vô sở trụ”.

Người xuất gia tu đạo giải thoát không chú ý đến sắc diện bên ngoài nhưng có một “nghệ thuật giữ sắc đẹp” được nói đến trong kinh Phật. Các Tỷ kheo và Tỷ – kheo ni không dành thời gian cho việc chăm sóc sắc đẹp nhưng chính cuộc sống tu tập “vô tâm” của họ khiến cho họ có được một sắc diện thật trẻ trung khả ái.

Gọi là “nghệ thuật giữ sắc đẹp” bởi nó là một thể cách tự nhiên được vận dụng lâu ngày thành ra thuần thục, hay một nếp sống đã đạt đến độ vô tâm hồn nhiên, không còn vướng bận bởi ý nghĩ đẹp xấu.

Tỏ ra lo lắng và chú ý làm đẹp bằng cách này hay cách khác thì gọi là “kỹ thuật chăm sóc sắc đẹp”. Còn sống mà ít bận rộn bởi ý tưởng đẹp xấu, tâm tư hồn nhiên thanh thoát, không say sắc xuân, không sầu sắc đông, thì có thể gọi là “nghệ thuật giữ sắc đẹp”.

Vua Pasenadi nước Kosala từng mục kích và nêu nhận xét về sức sống hồn nhiên trẻ đẹp của các Tỷ-kheo đệ tử Đức Phật:

“Bạch Thế Tôn, khi con đi du hành tản bộ từ công viên này đến công viên khác, từ cung uyển này đến cung uyển khác. Ở đấy, con thấy một số Sa môn. Bà la-môn gầy mòn, khốn khổ, da xấu, bạc nhược, tay chân gân nổi hình như không có gì đẹp mắt để người ta nhìn.

Bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: “Thật sự các bậc Tôn giả này sống Phạm hạnh không được hoan hỷ hay có nhưng ác nghiệp được giấu kín. Do vậy, các vị Tôn giả này mới gầy mòn, khốn khổ, da xấu, bạc nhược, tay chân gân nổi hình như không cỏ gì đẹp mắt để người ta nhìn.

Còn ở đây, bạch Thế Tôn, con thấy các Tỷ kheo hân hoan, phấn khởi, hỷ lạc, các căn thoải mái, không dao động, bình tĩnh, sống dựa vào sự hỷ cúng của người khác, với tâm tư hồn nhiên như con thú rừng.

Bạch Thế tôn, con suy nghĩ như sau. “Thật sự các bậc Tôn giả này ý thức được một sự tối thắng thù diệu nào trong giáo lý Thế Tôn, một sự thành đạt tuần tự nên các bậc Tôn giả này hân hoan, phấn khởi, hỷ lạc, các căn thoải mái, không dao động, bình tĩnh, sống dựa vào sự hỷ cúng của người khác, với tâm tư hồn nhiên như con thú rừng”(1).Nhận xét trên của vua Pasenadi cho thấy các Tỷ-kheo có nếp sống trẻ trung hồn nhiên với một sức diện thật khả ái và vua tin có một nghệ thuật sống khỏe sống đẹp nào đó trong giáo lý Đức Phật mà chư vị đã thể nghiệm.
Vua Pasenadi chỉ chứng kiến và tin giáo lý của Đức Phật có khả năng giúp cho người ta sống khỏe và sống đẹp thôi nhưng không biết rõ làm thế nào mà các Tỷ kheo có được nếp sống như vậy. Vậy nghệ thuật sống khỏe đẹp ấy là gì?

Nói khác đi, các Tỷ-kheo đệ tử Đức Phật đã theo đuổi pháp môn nào trong giáo lý của Ngài để có được sức sống trẻ trung hồn nhiên cùng với một vẻ đẹp thanh thoát bộc lộ từ trong ra ngoài?Chúng ta hiểu rằng toàn bộ giáo lý của Đức Phật đều có khả năng giúp cho con người sống khỏe và sống đẹp cả về thể chất lẫn tinh thần, bởi nó là nếp sống trung đạo bao gồm các giải pháp thực nghiệm tuyệt đối căn bản và bổ ích cho cá nhân trong chiều hướng hoàn thiện bản thân.
Tuy thế, đáp án chính xác cho câu hỏi trên đến từ một văn cảnh khác. Có một vị Thiên cũng từng cảm kích vẻ đẹp kỳ diệu của các Tỷ kheo tu hành kham nhẫn trong rừng núi, lấy làm thắc mắc và đến hỏi Đức Phật:

Vị Thiên:

Thường sống trong rừng núi,
Bậc Thánh sống Phạm hạnh,
Một ngày ăn một buổi,
Sao sắc họ thù diệu?

Đức Phật:

Không than việc đã qua,
Không mong việc sắp tới,
Sống ngay với hiện tại,
Do vậy, sắc thù diệu,
Do mong việc sắp tới,
Do than việc đã qua,
Nên kẻ ngu héo mòn.
Như lau xanh rời cành.
Lời Phật dạy cho thấy “nghệ thuật giữ sắc đẹp” được nói đến trong đạo Phật không gì khác là một nếp sống hồn nhiên, vô tâm, vô tư, cái gì đến thì biết là đến, cái gì đi thì rõ là đi, không nuối tiếc, không vọng tưởng, “ưng vô sở trụ”. Nói khác đi, đó là nếp sống của một người đã ngộ ra lẽ thực vô thường của cuộc đời, không tiếc nuối những gì đã qua, không bận lòng với những gì chưa đến, sống an nhiên tự tại trong mỗi thời khắc trôi qua với một tâm tư hoàn toàn tỉnh giác và an lạc. “Sống hôm nay biết hôm nay, còn xuân thu trước ai hay làm gì”.
Xem ra thì nghệ thuật sống trẻ đẹp chính là bớt lo nghĩ về sắc đẹp, bớt lao tâm khổ tứ vì sự thật đổi thay của sắc đẹp vậy.

“Trường sinh bất tử” hay “trẻ mãi không già” là chuyện không thực có ở đời nhưng nó là mối bận tâm xưa nay của những người có lắm tiền của. Đạo Phật không khuyến khích một ảo tưởng như vậy.

Trái lại, đạo Phật quan niệm cách nhìn thực tại trôi chảy đối với mọi hiện hữu và đề xuất một nếp sống khá tự nhiên phù hợp với thực tại trôi chảy ấy. “Có sinh tức có già chết”. Đức Phật đã dạy như thế.

Dĩ nhiên, người ta có thể nhờ đến các phương tiện hay kỹ thuật khác nhau để chăm sóc và giữ sắc đẹp, như là giải pháp trước mắt và tạm thời. Tuy vậy, không một kỹ thuật nào bảo đảm sắc đẹp được bền lâu như ý muốn và cách hay nhất là sớm nhận ra sự thật sinh diệt của cuộc đời và tập cho quen dần với nếp sống khá an nhiên tự tại trước mọi chuyển biến vô thường của hiện hữu.

Thực tập cách nhìn trôi chảy đối với mọi hiện hưu và sống với tâm thanh thản, bớt ưu tư lo lắng về sự thực trôi chảy ấy thì đây là phương pháp sống khỏe sống đẹp được nói đến trong đạo Phật. Đó cúng chính là đường hướng thực nghiệm an lạc, giải thoát, là nghệ thuật giữ cho sắc đẹp luôn được tươi tắn, không héo mòn, như lời Đức Phật đã dạy.
Nguyên Hương

Sala – cây của nhà Phật

Đây là loài cây đã chứng kiến Đức Phật đản sinh và nhập Niết Bàn.

Hoa Sala hay Tha la, còn gọi là hoa đầu lân mang ý nghĩa thiêng liêng đối với Phật Giáo Nguyên Thủy và Nam Tông, gắn bó với những sự kiện quan trọng trong cuộc đời của Đức Phật Thích Ca.

Như cây Bồ Đề trong Phật Giáo Đại Thừa, Sala thường trồng trong các sân chùa Nam Tông ở Sri Lanka, Myanmar, Thái Lan, Campuchia, Lào và một số chùa Khmer Nam Bộ. Tín đồ Hindu Giáo Ấn Độ cũng xem cây sala thiêng liêng và thường trồng nơi đền thờ thần Shiva.
Do kết cấu cả chùm hoa trông giống rắn thần (naga), mỗi bông là đầu và miệng phùng mang che phần nhụy trung tâm có hình một lingam của thần Shiva và nhiều shivalingam nhỏ bao quanh, nên được gọi là Nagalingam hay “hoa Shivalingam”.

Hình tượng này làm ta liên hệ đến con rắn hổ mang chín đầu bảo vệ Đức Phật trong lúc ngài ngồi nhập định 49 ngày dưới cội cây bồ đề.
Hoa sala có mùi rất thơm, hương tỏa xa thanh thoát, được xem là loài hoa vô ưu hay ưu đàm. Sala nở rộ tượng trưng cho Phật Pháp (Dharma), và Đức Phật cuối cùng đã chọn giữa bóng hai cây này (song thọ) để nằm nghỉ và đi vào Niết Bàn

Trong phù điêu nghệ thuật Phật Giáo thường mô tả thân mẫu Đức Phật là Hoàng Hậu Maya sinh nở trong vườn Lumbini, khi bà đưa cánh tay phải lên vịn cành hái một đóa hoa sala và đã hạ sinh Thái Tử Siddhartha. Hoa sala mọc từng chùm trực tiếp từ thân cây chứ không mọc từ cành hay ngọn như những loài hoa khác, khiến ta có thể lý giải về biểu tượng Đức Phật được sinh ra từ cạnh sườn của Hoàng Hậu Maya.
Hình tượng nữ Yashi (Dạ xoa) thân thể với vẻ đẹp lý tưởng đầy gợi cảm, nàng đang đứng dưới bóng cây sala với bàn tay phải với lấy cành cây, thường thấy mô tả trong nghệ thuật điêu khắc cổ.

Thuật ngữ salabhanjika nguyên thủy gắn bó với lễ hội phồn thực “hái hoa sala”, điêu khắc thể hiện những hình tượng đồng nhất người nữ với cây, nhất là cây hoa sala. Ở Ấn Độ, ngày nay cây sala vẫn được thờ cúng, đặc biệt với những cặp hiếm muộn.

Sala có thể mọc cao lên đến 15m, tên khoa học là Couropita Guianensis, thuộc họ dầu (Dipterocarpaceae). Hoa chỉ mọc từ thân chính, có màu cam lẫn đỏ thắm và hồng, và mọc thành chùm trên cọng dài có khi tới 3m.

Quả to tròn màu xám (hình thù như trái đạn thần công nên tên tiếng Anh còn gọi là Canon-ball tree) có mùi hắc khó ngửi, muốn trồng thành cây phải đợi hạt bên trong thối đi mới nảy mầm, rồi bổ quả thối ra để lấy hạt trồng. Quá trình này diễn ra đúng theo quan niệm phồn thực về sinh, diệt và tái tạo trong Ấn Giáo.

Ở Sài Gòn, có thể thấy một số cây sala trồng trong Chùa Già Lam, Thảo Cầm Viên, Tao Đàn, Khu du lịch Bình Quới …

Trong văn chương, bài thơ Đây Tha La Xóm Đạo của Vũ Anh Khanh, mô tả một xóm đạo thuộc vùng nổi tiếng về “cây ngọt trái lành” ở Tây Ninh, cho thấy có sự giao thoa giữa các đạo Hindu, Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo ở một vùng đất vốn thuộc văn hóa Khmer.

Thuật ngữ “sala song thụ” trong tiếng Phạn nghĩa là sự kiên cố. Khi Phật nhập diệt, hai cây “sala song thụ” cũng như người, chúng đau buồn và lá đều biến thành màu trắng như một rừng chim hạc.

Kinh Đại Bát Niết Bàn kể rằng trên đoạn đường cuối cùng trong chuyến vân du về Câu Thi Na (Kushinagara) cùng với A Nan Đa, vị thị giả của mình, Đức Phật bảo: “Này A Nan Đa, ta cảm thấy mệt mỏi quá và muốn nằm nghĩ, hãy trải tấm tọa cụ ra giữa hai cây sala, đầu hướng về phương Bắc”.

Và khi Ngài nằm xuống thì hai cây sala bỗng nở hoa mặc dù lúc đó không phải là mùa ra hoa. Rồi những đóa hoa tươi thắm làm thành một cơn mưa hoa ngọt ngào, dịu mát như để tiễn đưa đấng Đạo Sư về với cảnh giới chân như muôn thuở.

Vì chúng ta vẫn còn Lậu Hoặc – HT. Tuyên Hóa

In Cẩm - Nang - Học - PHẬT on 17/04/2010 at 5:32 PM
“Thần Thông”. Thế nào gọi là “thần”? Thế nào gọi là “thông”? “Thần” là “thiên tâm”, là tâm của trời; “thông” là “huệ tánh”, tức là có trí huệ. “Thông” còn là “thông đạt vô ngại” – chẳng có gì không thông suốt; và “thần” cũng hàm ý thần kỳ bí ẩn.

Thần thông có sáu loại – sáu loại cũng là một loại, một loại mà phân làm sáu loại. Cho nên, tách riêng ra thì có tới sáu loại, song hợp lại thì chỉ là một. Thật ra, một loại cũng chẳng có nữa, bởi xưa nay vốn không có thần thông mà vốn cũng có thần thông!

Vì sao nói “vốn không có thần thông”? Vì sao lại nói “vốn cũng có thần thông”? Ðiều này rất kỳ diệu, lý thú. Bây giờ, chúng ta hãy nói về sáu loại thần thông trước, rồi sau đó sẽ bàn đến “vốn là thần thông, vốn không phải là thần thông; vốn là một loại thần thông, vốn là một loại thần thông cũng chẳng có.”

Sáu loại thần thông chính là Thiên Nhãn Thông, Thiên Nhĩ Thông, Tha Tâm Thông, Túc Mạng Thông, Lậu Tận Thông, và Thần Túc Thông.

1) Thiên Nhãn Thông. Người chứng được Thiên Nhãn Thông có thể nhìn thấy khắp cả ba ngàn đại thiên thế giới rõ ràng như nhìn quả am-ma-la trong lòng bàn tay vậy. Trong hàng đệ tử của Phật, Tôn Giả A Na Luật là bậc đứng đầu về Thiên Nhãn Thông.

2) Thiên Nhĩ Thông. Chứng được Thiên Nhĩ Thông thì có thể nghe được mọi âm thanh từ cõi nhân gian cho đến tận ba ngàn đại thiên thế giới, luôn cả các âm thanh của cõi trời.

3) Tha Tâm Thông. Ðây là khả năng đọc được ý nghĩ của người khác. Tất cả những việc mà quý vị dự tính trong đầu, định sẽ thực hiện, thì cho dù quý vị chưa hề thổ lộ với ai cả, nhưng người đã chứng đắc Tha Tâm Thông vẫn có thể biết rõ.

4) Túc Mạng Thông. Người chứng đắc Túc Mạng Thông có khả năng biết được tất cả những việc – thiện cũng như ác – mà quý vị đã tạo tác trong các đời trước.

5) Thần Cảnh Thông (cũng gọi là Thần Túc Thông hoặc Như Ý Thông). Chữ “thần” này đồng nghĩa với chữ “thần” vừa giảng ở trên, và cũng chỉ cho một cảnh giới kỳ diệu, không thể nghĩ bàn. Ý nghĩa của chữ “thần” và chữ “diệu” có đôi chút tương đồng; cho nên có lúc nói “thần diệu khôn lường”, chính là ám chỉ một thứ cảnh giới không thể nghĩ bàn.

“Cảnh” là cảnh giới; còn “thông” là thông đạt vô ngại, vốn không thông mà lại thông. Thí dụ, bức tường chắn ngang tuy có gây trở ngại, nhưng nếu quý vị khoét một lỗ hổng thì sẽ được thông lưu. Tương tự như thế, “bức tường” vô minh gây chướng ngại, ngăn che ánh sáng quang minh của tự tánh trong chúng ta; song, nếu quý vị có thể dùng “gươm” trí huệ của mình để phá vỡ bức tường đó, thì sẽ được thông suốt ngay.

6) Lậu Tận Thông. Chúng ta vì sao chưa thành Phật? Bởi vì chúng ta vẫn còn “lậu hoặc”! Chúng ta vì sao chưa thể làm Bồ Tát? Bởi vì “lậu hoặc” vẫn tồn tại trong chúng ta! Chính vì lậu hoặc mà chúng ta phải trầm luân trong Tam Giới – Dục Giới, Sắc Giới và Vô Sắc Giới. Chẳng những thế, các lậu hoặc này còn khiến cho chúng ta bị lưu lạc, nổi trôi trong chín Pháp Giới. Chín Pháp Giới là gì? Ðó là chín cõi giới của Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, Thiên (Trời), Nhân (Người), A Tu La, Ðịa Ngục, Ngạ Quỷ và Súc Sanh. Chúng sanh trong chín Pháp Giới này chưa thể thành Phật được là vì họ còn có lậu hoặc; nếu không còn lậu hoặc nữa thì nhất định sẽ thành Phật.

Lậu hoặc này do đâu mà có? Chính là do vô minh! Cho nên, hễ diệt trừ được vô minh thì lậu hoặc sẽ không còn nữa; nếu vô minh chưa bị phá hủy thì lậu hoặc vẫn còn tồn tại. Do vậy, người chứng được Lậu Tận Thông chẳng có bao nhiêu. Một khi không còn lậu hoặc thì quý vị sẽ không còn phải trôi lăn trong vòng sanh tử nữa. Tại sao chúng ta vẫn còn luẩn quẩn trong vòng sanh tử? Ðó là vì chúng ta có lậu hoặc! Người có lậu hoặc ví như cái bình bị lủng vậy – quý vị muốn đổ nước cho đầy bình, nhưng nước cứ rỉ ra ngoài theo chỗ lủng, bình không thể giữ được nước. Cho nên, dứt sạch mọi mối lậu tức là được “lậu tận thông” vậy.

Nói rằng con người “vốn không có thần thông”, là ám chỉ lúc chúng ta còn là phàm phu, chưa hiện thần thông. Lại nói rằng con người “xưa nay vốn có thần thông”, bởi y cứ vào quả vị của bậc Thánh nhân mà nói thì thần thông vốn đã có sẵn. Hạng phàm phu thì không có thần thông, bậc Thánh nhân mới có thần thông. Thần thông của Thánh nhân phải chăng là đến từ bên ngoài? Không, đó là có sẵn! Thế thì phàm phu không có thần thông, phải chăng là vì họ đã đánh mất? Cũng không phải, bởi thần thông ấy vẫn tiềm tàng trong tự tánh của phàm phu; chẳng qua là họ chưa phát hiện ra, chưa nhận thức được, nên tưởng rằng mình không có mà thôi! Cho nên, tôi nói “vốn không có thần thông” là vì lẽ ấy.

Có thần thông hay không có thần thông đều chẳng quan trọng. Quý vị chớ lầm tưởng rằng có thần thông tức là đắc Ðạo hoặc chứng được quả vị. Phải biết rằng có được thần thông rồi vẫn còn ở cách sự chứng quả và đắc Ðạo rất xa! Chúng ta không nên mới đạt được đôi chút thành tựu liền tự mãn: ” – , phen này tôi phát tài rồi!” Mới có được một lượng vàng mà đã reo mừng rối rít, cho là mình phát tài; trong khi người ta có tới hàng ngàn hàng vạn lượng vàng thì lại không hề khoe khoang, vẫn bình thản như không có gì cả vậy! So với người ta thì việc mình có được một lượng vàng có gì là to tát đâu? Có câu:

Được ít cho là đủ, nửa đường tự ngừng

(Đắc thiểu vi túc, trung đạo tự hoạch)

Những kẻ chỉ mới gặt hái được một vài thành quả nhỏ nhoi mà ngỡ là nhiều lắm, thì chẳng khác nào tự vẽ sẵn mức đường giới hạn cho mình ở nửa đường, đến mức đó thì ngừng lại, không lướt tới nữa. Ðó là cảnh giới của hàng Nhị Thừa, chứ không phải là căn tánh Bồ Tát của Ðại Thừa. Cho nên, đừng nghĩ rằng có thần thông là tài giỏi. Nếu quý vị có thần thông rồi tự phụ, cho rằng mình tài giỏi hơn người, thì quý vị còn quá nông nỗi – bởi như thế là quý vị vẫn còn tâm chấp trước, còn lòng tự mãn.


http://meogracie.wordpress.com/category/cẩm-nang-học-phật/