Wednesday, June 13, 2012

Chuyện lá đu đủ chữa khỏi ung thư

gshien4_jpg

Vừa qua, tòa soạn đã nhận được thư của GS Nguyễn Xuân Hiền, nguyên Chủ nhiệm Khoa Da Liễu, Bệnh viện T.Ư Quân đội 108 công bố hướng dẫn 250 người chữa ung thư bằng lá đu đủ. Kết quả nhiều bệnh nhân khỏi bệnh hoặc đỡ, kéo dài sự sống tốt.

Nhưng bằng sự thận trọng của một người từng làm trong lĩnh vực y khoa, ông vẫn mong muốn các bộ ngành liên quan nghiên cứu bài thuốc dân gian này. Phóng viên đã tiếp cận trực tiếp vấn đề này.
Dù đã 91 tuổi nhưng trên bàn làm việc của GS Nguyễn Xuân Hiền trong căn nhà Khu tập thể Dệt Kim Hà Nội vẫn bề bộn sách vở. Ông không chỉ viết các chuyên đề nghiên cứu thuộc lĩnh vực của mình mà đi sâu nghiên cứu về lá đu đủ trị ung thư.

Ông tâm sự, từ khi nghỉ hưu ông sưu tầm nghiên cứu và hướng dẫn miễn phí cho các bệnh nhân ung thư có nhu cầu về bài thuốc này để giúp đỡ.

7/15 người uống có kết quả?
Câu chuyện bắt đầu từ năm 2005, khi ông được tin bà Lê Thị Đặng ở TPHCM đã dùng nước sắc lá đu đủ điều trị cho chồng bị ung thư lưỡi đã di căn chọc thủng một bên má. Sau vài tháng chỉ uống nước lá đu đủ đã khỏi bệnh và sống thêm được 9 năm rồi chết vì tuổi già (87 tuổi).

Bài thuốc này lại bắt nguồn từ ông Stan Sheldon (người Úc). Năm 1962, ông Stan Sheldon bị ung thư 2 lá phổi sắp chết, may có người thổ dân mách cho uống nước sắc lá đu đủ, sau vài tháng đã khỏi, 10 năm sau không tái phát, 16 bệnh nhân ung thư khác được mách uống nước sắc lá đu đủ cũng đã khỏi.
Theo GS Nguyễn Xuân Hiền, khi nhận được bài thuốc, ông cũng áp dụng cho người nhà bị bệnh nhưng do bệnh đã di căn lại không áp dụng triệt để nên không chữa khỏi bệnh. Tuy nhiên, ông vẫn kiên trì theo dõi các bệnh nhân khác.
Kết quả trong 2 năm (2005 - 2007), hướng dẫn cho 15 bệnh nhân cho thấy: 4 trường hợp (3 u phổi, 1 chửa trứng) uống được trên 5 - 6 tháng thì sức khoẻ ổn định, lên cân, u thu nhỏ, hết hạch cổ, đỡ ho, đỡ đau; 3 trường hợp bị u phổi khác uống được hơn 2 - 3 tháng thì u nhỏ đi, sức khoẻ tốt hơn; 1 trường hợp bị u phổi khác uống được 2 tháng, bệnh tiếp tục tiến triển, đau, ho nhiều; 3 trường hợp chết (1 u phổi, 1 u dạ dày, 1 u gan) chỉ uống chưa được 2 tháng sau đó chuyển thuốc Đông y khác; 1 trường hợp u đại tràng di căn chỉ uống chưa được 2 tháng, kết quả không mấy tiến triển.

Từ đó đến nay, ông tiếp tục nghiên cứu và hướng dẫn cho 250 người khác có đầy đủ số điện thoại, địa chỉ ở khắp các tỉnh thành trong cả nước, kết quả có 9 người khỏi bệnh, hết u, sức khoẻ tốt.

GS Nguyễn Xuân Hiền giới thiệu bài thuốc với phóng viên.

Nhiều người trên thế giới khỏi bệnh?
Ngoài 16 trường hợp bị ung thư phổi được ông Sheldon mách uống lá đu đủ cũng khỏi bệnh, GS Nguyễn Xuân Hiền cũng cung cấp cho chúng tôi một bản dịch từ Mỹ trong đó cũng kể kinh nghiệm của 3 người bị ung thư phổi đã ở giai đoạn III, IV cũng nhờ uống nước lá này mà khỏi.

Tuy nhiên, bài viết chỉ nêu rất chung chung, không có tên và địa chỉ của người bệnh: Một người đàn ông 65 tuổi, đã bị cắt 1/4 lá phổi, ho ra máu và mủ nhiều, người kiệt sức chỉ nằm mà không ngồi được, bệnh viện trả về nhà chờ chết.

Ông này đã uống lá đu đủ chưa đầy 2 tháng mà bệnh tình thuyên giảm tới 80%, 4 tháng thì khỏi hẳn. Hay một người đàn bà 66 tuổi, bị ung thư phổi giai đoạn IV - to bằng bàn tay, tế bào ung thư đã ăn sâu vào xương sống, sau 3 tháng uống lá đu đủ, khối u teo nhỏ lại bằng đầu ngón tay, tháng thứ 6 thì chỉ còn là chấm nhỏ...
Khi được hỏi về tính xác thực của các kết quả ghi nhận những bệnh nhân uống lá đu đủ khỏi bệnh, GS Nguyễn Xuân Hiền cho biết, ông đã nghỉ hưu nên không đủ điều kiện nghiên cứu, chứng minh trên lâm sàng.

Ông chỉ là người truyền bá bài thuốc để giúp những người bị bệnh "tứ chứng nan y" vượt qua được bệnh tật. Các bệnh nhân khỏi bệnh là do họ gọi điện báo cho ông chứ ông cũng không thăm khám hay có các kết quả xét nghiệm từ Tây y.

GS Nguyễn Xuân Hiền.

Tuy nhiên, theo GS Nguyễn Xuân Hiền, qua theo dõi nghiên cứu ông thấy, nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới đã nghiên cứu và ghi nhận lá đu đủ có thể chữa được ung thư.

Gần đây nhất là công trình nghiên cứu của BS.TS Nam.H.Dang giáo sư Đại học Florida Mỹ đã công bố trên tạp chí dược học cho thấy, chất chiết xuất từ lá đu đủ có tác dụng tăng cường quá trình sản sinh các phân tử truyền dẫn tín hiệu chủ chốt có tên Th1-type cytokines.

Chúng đóng vai trò điều hòa hoạt động của hệ miễn dịch trong cơ thể đồng thời tạo hiệu quả tiêu trừ khối u ở một số loại ung thư, điều này mở ra những phương cách điều trị bệnh ung thư qua hệ thống miễn dịch.
Nghiên cứu đã dùng nước chiết lá đu đủ ở 4 độ mạnh khác nhau cho 10 mẫu ung thư khác nhau và đo hiệu quả sau 24 tiếng. Kết quả cho thấy, lá đu đủ đã làm chậm sự phát triển của tế bào ung thư trong cả 10 mẫu thử ấy.

Đặc biệt là chất chiết xuất từ lá đu đủ không gây độc hại cho các tế bào bình thường, do đó, tránh được các tác dụng phụ thường gặp ở nhiều phương pháp điều trị hiện nay.
Chưa được khoa học công nhận
Theo GS Nguyễn Xuân Hiền, trước đây có nhiều người phản đối lá đu đủ chữa bệnh và cho rằng đó là một loại cây khác. Nhưng nghiên cứu của BS.TS Nam.H.Dang là cây Carica papaya. Đây là tên khoa học của cây đu đủ. Người Mỹ gọi đu đủ là papaya, người Úc và New Zealand gọi là pawpaw.

Không nên lẫn lộn "paw paw đu đủ" và "paw paw Bắc Mỹ". Cây pawpaw Bắc Mỹ thân mộc, có tên khoa học là Asimina tribola và cũng được làm dùng thuốc trị ung thư hiện có bán trên trị trường. Còn đu đủ là cây thân thảo.
GS Nguyễn Xuân Hiền nhấn mạnh, nhiều người, đặc biệt với những người chưa qua phẫu thuật khối u, chưa chạy xạ, truyền hóa chất chống ung thư thì kết quả tốt và nhanh hơn. Các nghiên cứu cho thấy, trong lá đu đủ có men papain và trong men papain có chất carotenoid và Iso thyocyanotes có khả năng kích thích sản xuất Cytokin Th1 - type là yếu tố miễn dịch, do đó có thể ức chế tế bào ung thư mạnh gấp triệu lần các thuốc chống ung thư Tây y.
Một công trình nghiên cứu so sánh nước sắc lá đu đủ với 10 loại nước lá chống ung thư khác thì thấy, nước sắc lá đu đủ có tác dụng vượt trội mà giá thành lại rẻ bằng 1/2 - 1/3 với các loại khác. Hơn nữa, nước sắc lá đu đủ không gây tác dụng phụ.
Tuy nhiên, theo GS Nguyễn Xuân Hiền, cho tới nay nước sắc lá đu đủ chữa ung thư vẫn chưa được khoa học công nhận, vì thế rất khó biết nó có tác dụng thực sự hay không, nếu có thì ở chừng mực nào và các phản ứng phụ có thể xảy ra. Vì vậy, ông thiết tha mong muốn Viện Đông y, Bệnh viện K, Bộ Y tế... quan tâm nghiên cứu vấn đề này một cách bài bản, khoa học.

Mỗi ngày lấy 4 - 5 lá đu đủ cả cuống, già càng tốt (có tài liệu hướng dẫn là lá bánh tẻ), lấy dao cắt nhỏ cho vào nồi đổ 2 lít nước, nấu khoảng 2 tiếng, cô lại thành 1 lít để nguội cho vào tủ lạnh, uống thành 2 ngày, mỗi ngày 500ml chia làm 3 lần lúc no. Sau khi uống, uống thêm 1 - 2 thìa cà phê mật mía hoặc mật ong. Uống liên tục 3 tháng trở lên mới thấy có tác dụng. Những người chưa qua phẫu thuật khối u, chưa chạy tia, truyền hóa chất thì kết quả tốt và nhanh hơn.

Thông tin những bệnh nhân được cứu sống từ lá đu đủ

Theo danh sách GS Nguyễn Xuân Hiền cung cấp, PV đã trực tiếp trao đổi với các bệnh nhân và đơn vị nghiên cứu lá đu đủ chữa ung thư tại Việt Nam để thông tin rõ vấn đề.

Những cái chết...  hồi sinh?
Lần theo số điện thoại còn lưu lại của GS Nguyễn Xuân Hiền, chị Nguyễn Thị Hạnh (45 tuổi ở 36 đường Giải Phóng, Hà Nội) cho biết, chị không rõ mình khỏi bệnh do nước lá đu đủ hay các loại thuốc mà chị đã uống.
Chị Hạnh kể, năm 2004, chị phát hiện bị ung thư buồng trứng và đã phẫu thuật cắt hết buồng trứng cùng cổ tử cung, sau đó truyền hóa chất và xạ trị. Ở bệnh viện về chị rất suy sụp và đã tìm đến bài thuốc uống nước sắc lá đu đủ của GS Nguyễn Xuân Hiền.
Thực tế, ngoài lá đu đủ chị còn uống nhiều loại thuốc từ thuốc ung thư đến phục hồi gan (hỏng gan do hóa chất)... được mua từ Mỹ về. Có thời điểm, riêng tiền thuốc của chị 1 ngày trị giá cả một cây vàng. Chị kiên trì điều trị như vậy rồi bệnh lui lúc nào không biết. Năm 2008 thì chị khỏi hẳn.
Riêng về lá đu đủ, theo chị rất cần các nhà khoa học nghiên cứu xem có chất gì bởi chị thấy: Nước sắc lá đu đủ nếu để bên ngoài, chỉ 1 vài tiếng là rất thối. Cho vào tủ lạnh ngày hôm trước đến hôm sau mà nước cũng biến đổi từ màu xanh đục sang trong veo.
Bác Nguyễn Trường Thế (68 tuổi ở số 10/8 Nguyễn Lương Bằng, Đống Đa, Hà Nội) đã uống bài thuốc của GS Nguyễn Xuân Hiền một năm thì khoẻ mạnh. Trao đổi với chúng tôi, vợ bác Thế cho biết, đầu năm 2010, chồng bác ăn không ngon, ngủ không yên, chiều đến thường xuất hiện những cơn đau tức ngực. Đi khám ở Bệnh viện Đống Đa cho kết luận có khối u ở phổi, bác Thế được chuyển đến Bệnh viện U bướu Hà Nội điều trị.
Sau một thời gian nằm viện, bác Thế được trả về. Vô tình nghe người ta mách uống nước lá đu đủ chữa khỏi bệnh, bác tìm đến GS Nguyễn Xuân Hiền và uống cho đến giờ. Hiện, sức khoẻ của bác Thế đã dần được hồi phục. Hằng ngày, bác vẫn đưa đón cháu đi học, phụ giúp vợ con việc nhà.

GS Nguyễn Xuân Hiền đang tư vấn bài thuốc chữa ung thư bằng lá đu đủ cho bệnh nhân qua điện thoại.

Khỏi ung thư phổi nhưng chết vì di căn xương
Trao đổi với gia đình bệnh nhân Lê Văn Sang (71 tuổi ở Linh Đàm, Hà Nội), bị ung thư phổi sau 5 tháng kiểm tra lại khối u xơ hóa hết, chị Thu con gái bệnh nhân cho biết, ông đã kéo dài được gần chục năm và mất do di căn xương. Theo chị Thu, bố chị bị ung thư phổi giai đoạn muộn không thể phẫu thuật, tia xạ 40 lần kiểm tra lại khối u vẫn không bé đi. Gia đình đã cho cụ uống lá đu đủ theo hướng dẫn của GS Nguyễn Xuân Hiền cùng với tam thất sống. Kết quả kiểm tra lại khối u teo đi, chỉ còn lại một đốm mờ nhưng cụ lại rất đau xương, bệnh viện kết luận di căn ung thư xương và cụ mất vì bệnh này.
Chị Nghiêm Thị Lanh (48 tuổi ở khu 10 xã Cổ Tiết, Tam Nông, Phú Thọ) cho biết, chị bị đau tức ngực và âm ỉ khắp nơi, đi khám bác sĩ kết luận u vú và chuyển Bệnh viện K xét nghiệm kết luận ung thư. Chị sợ ung thư động dao kéo nhanh chết nên về nhà và được họ hàng mách cho ở xã bên có người bị ung thư não uống nước lá đu đủ tới nay khỏi bệnh.

Chị đến hỏi và biết được do GS Nguyễn Xuân Hiền hướng dẫn nên gọi điện để xin bài thuốc. Uống hơn 10 ngày thấy đỡ, chị tìm đến tận nhà GS hỏi kỹ hơn. Cho đến nay, sau khi uống thuốc được 1 tháng 12 ngày, chị cho biết bệnh đại tràng mạn tính của chị không còn, cũng không còn cảm giác đau râm ran khắp người, chỉ còn tức ngực. Khối u của chị nhỏ nên chị vẫn không thấy. Chị cho biết, chị sẽ uống hết 3 tháng rồi đi xét nghiệm mới biết lá đu đủ có tác dụng chữa được ung thư hay không. Trước mắt uống nước lá đu đủ chị thấy mình khoẻ mạnh và giảm rất nhiều đau nhức.

Khảo sát hoạt tính chống ung thư của nước lá đu đủ

"Dù kết quả nghiên cứu cho thấy lá đu đủ có hoạt tính ức chế tế bào ung thư nhưng khi bị ung thư vẫn nên đến Tây y điều trị, chỉ nên dùng lá đu đủ để hỗ trợ".

PGS.TS Đỗ Thị Hoa Viên

Theo giới thiệu của GS Nguyễn Xuân Hiền, chúng tôi đã gặp và trao đổi với PGS.TS Đỗ Thị Hoa Viên, Viện Công nghệ Sinh học và Công nghệ Thực phẩm, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội - người đang cùng một số đồng nghiệp và học viên, sinh viên nghiên cứu về hoạt tính chống oxy hóa, hoạt tính chống ung thư của dịch chiết nước lá đu đủ.
PGS.TS Đỗ Thị Hoa Viên cho biết, lý do nhóm nghiên cứu tiến hành các đề tài này là vì tình trạng ung thư ngày càng nhiều, Tây y chữa trị có nhiều tác dụng phụ khiến có nhiều bệnh nhân không chịu đựng được. Đông y có thế mạnh khai thác dược thảo, lấy các hợp chất từ thiên nhiên để điều trị. Đặc biệt, thế giới có nhiều công bố về tác dụng của lá đu đủ chữa khỏi ung thư nên nhóm muốn nghiên cứu các hoạt chất sinh học và thử nghiệm xem có tác dụng thực sự hay không.
Hơn nữa, ngoài công bố về bài thuốc chữa bệnh ung thư từ lá đu đủ đã được ông Stan Sheldon ở vùng Gold Cost, Australia sử dụng để chữa lành bệnh ung thư phổi cho chính bản thân ông và 16 người khác, các bác sĩ Australia đã thử nghiệm và công nhận công hiệu của lá đu đủ trong điều trị ung thư.
Gần đây, một số nhà khoa học ở Phòng Thí nghiệm lâm sàng thuộc Trung tâm Ung thư, Đại học Florida, Mỹ và Đại học Tokyo, Nhật Bản đã hợp tác với nhau để nghiên cứu về khả năng phòng chống ung thư của lá đu đủ. Kết quả nghiên cứu của họ công bố vào đầu năm 2010 đã chỉ ra rằng, dịch chiết nước của lá đu đủ có khả năng ức chế sự phát triển của 10 loại tế bào ung thư thử nghiệm, gồm ung thư cổ tử cung, ung thư buồng trứng, ung thư gan, ung thư phổi, ung thư tuyến tuỵ... Khi cho 10 loại tế bào ung thư khác nhau tiếp xúc với dịch chiết trên, 24 giờ sau có thể thấy tốc độ phát triển của tế bào chậm hẳn lại và nếu nồng độ chất chiết xuất càng cao, hiệu quả kháng tế bào ung thư, thậm chí giết chết nó càng rõ rệt.
Trong một thí nghiệm tiếp theo, các nhà khoa học còn phát hiện ra các hoạt chất chiết xuất từ lá đu đủ có khả năng thúc đẩy sự sản sinh ra tế bào lympho Th1 - tế bào đóng vai trò quan trọng trong hệ miễn dịch của người. Kết quả này gợi mở khả năng điều trị và ngăn chặn bệnh ung thư và các bệnh liên quan đến rối loạn dị ứng ở người của các hoạt chất chiết xuất từ lá đu đủ, cũng như khả năng sử dụng chúng như là chất hỗ trợ miễn dịch. Cũng trong nghiên cứu này, các tác giả đã công bố rằng, những hoạt chất chiết xuất từ lá đu đủ có tác dụng kháng ung thư, nhưng không gây độc đối với các tế bào lành tính khác. Hiện các nhà khoa học đang đẩy mạnh nghiên cứu để thử nghiệm trên động vật và người.
“Với mong muốn góp phần làm sáng tỏ cơ sở khoa học về tác dụng chống ung thư của lá đu đủ, kết quả nghiên cứu bước đầu của nhóm nghiên cứu tại Việt Nam cho thấy, hầu hết các mẫu thí nghiệm đều có hoạt tính chống oxy hóa cao gấp nhiều lần so với vitamin C ở cùng một nồng độ thử nghiệm và đều có hoạt tính ức chế một số dòng tế bào ung thư mà chúng tôi đã khảo sát", PGS.TS Đỗ Thị Hoa Viên thông báo.

Theo các nhà nghiên cứu, lá đu đủ có chứa các alcaloid như carpaine, pseudocarpaine, dehydrocarpaine và choline. Ngoài ra, trong lá đu đủ còn có saponin, carposide, myrosin, rutin, resin, tannins, flavonols, benzylglucosinolate, linalool, malic acid, methyl salicylate, enzym papain và chymopapain, calci, sắt, magne, mangan, photpho, kali, kẽm, beta-caroten, các vitamin nhóm B, vitamin A, vitamin E và vitamin C (trong lá cao hơn trong quả). Năm 2007, một nhóm nhà khoa học ở Italia đã công bố rằng, trong dịch chiết methanol của lá đu đủ có chứa các phenolic acid như caffeic acid (0,25mg/g lá khô), coumaric acid (0,33mg/g), protocatechuic acid (0,11mg/g), kaempferol (0,03mg/g), quercetin (0,04mg/g), 5,7-dimethoxycoumarin (0,14mg/g).

Theo Thúy Nga - KTO

Tuesday, June 12, 2012

Rủ sạch phiền não và vui sống tự tại !


Khi gặp nhiều phiền não trong tâm bất an CN thường hay ngồi lắng lòng nghe nhạc niệm Phật và niệm theo khoảng 15 phút là cảm thấy vui tươi lại liền. Có nhiều chuyện mình nghĩ là nghiêm trọng lắm, buồn lắm nhưng ngồi niệm Phật 1 chút là mình thấy chuyện đó không đáng gì để mình buồn. Đôi khi thấy mình thật lãng nhách, vô duyên
Chỉ cần 15 phút trở về Phật tâm của mình, là cảm thấy cuộc đời này sao đáng yêu đến thế. Mọi việc trôi qua như giấc mộng không có gì là thật luôn cả những vọng tưởng điên đảo. Vọng tưởng hành hạ mình đau khổ, chứ không có ai làm mình khổ đau. Nhiều khi mình không hiểu chuyện lại suy nghĩ điên đảo để tự làm khổ mình khổ người...
Mỗi người như là 1 diễn viên trên sân khấu cuộc đời sao mình không chọn vai vui vẻ, hạnh phúc mà diễn tuồng cho tròn vai. Mỗi phút trôi qua, một cảnh mới xảy ra, lúc thì ta nhập vai thiên thần (lúc ta cười tươi ), khi thì ta vào vai ác quỷ (lúc nổi sân si). Cũng may là cuộc đời vô thường, chứ không vô thường thì bị khổ hoài sao chịu nổi, có khổ thì mình mới nếm được vị ngọt của hạnh phúc, sau cơn mưa trời lại sáng, lại thêm cầu vòng ngũ sắc muôn màu thật đẹp.
Niệm Phật chán thì nghe Pháp, hồi xưa CN tưởng mình nghe nhiều sẽ bị loạn, phải chú trọng vào việc niệm Phật là chính. Nhưng CN đã lầm to, HT Huyền Vi có nói HT học Kinh Phật hơn cả nữa đời vẫn thấy thiếu. Nghe Pháp nhiều có lợi lắm, làm cho tâm của mình mở sáng ra, như phòng tối mà mình mở toan cửa sổ ra hết, cho ánh sáng trí tuệ tràn vào, mình sẽ hết âm u, tăm tối... Thấy vậy chứ A Lại Gia Thức của mình nó ghi vô không sót chữ nào hết, tới khi đường tu gặp trắc trở nó mới phát huy tác dụng. Có nhiều vị hồi xưa, đang ngồi nghe Pháp mà chứng quả, chắc những vị đó nghe pháp 24 giờ một ngày quá Smile
Khi mình khởi lên những suy nghĩ giận, hờn, thương, ghét gì đó mình phải nhận ra và biết liền và thầm nghĩ: “nè nghe, vọng tưởng điên đảo gì nữa đây, ta đã nhận ra ngươi rồi đó, những ông quân sư trong đầu, đang bàn tán điên đảo gì thế, muốn hại chết ta sao? “
CN nghe trong băng giảng kia, Thầy nói trong tâm mình có tới 50 ông quân sư, mấy ổng bàn tán xôn xao, ông thì xúi, ông thì phân tích, ông thì khích mình làm, mấy ổng cứ kích động liên tục. Nếu ông vua mình mà chánh trực thì không để mấy ổng làm mình tức lên, điên lên với ai đó khi họ vô tình đã xúc phạm mình. Còn ngược lại ông vua bù nhìn thì để mặc cho mấy ông gian thần này xúi bậy và làm bậy theo... Nếu các bạn không tin CN thì thử để ý đến dòng suy nghĩ của mình xem, chúng đang bàn tán xôn xao.
Dẹp chúng bằng cách đưa chánh niệm vào - Niệm Phật. Dễ như trở bàn tay không? Thật thú vị khi biết được tâm thức mình hoạt động như thế nào? Khi tâm vừa khởi niệm động đậy là mình nhìn thấy liền. Như thế là nó rút quân để cho mình yên tịnh 1 hồi.
CN phải cám ơn những vị Thầy đi hoằng pháp, nhờ những bài pháp của những vị này mà CN đã khai mở trí tuệ được rất nhiều. Nhất là Thầy Trí Siêu giảng rất gọn gàng, dễ hiểu. Ngoài ra CN thích nhất là Thầy cho những dẫn chứng ví dụ, chứ nói cao siêu quá thật tình CN nghe hoài mà không thể nào hiểu nổi. Kinh Duy Ma Cật và Duy Thức Học, nghe đi nghe lại mà thật tình chẳng hiểu nổi, nghe tới khúc đuôi thì quên khúc đầu, rầu lắm! Khi CN nghe được Thầy Trí Siêu giảng Kinh Duy Ma Cật và Duy Thức Học, nghe 1 lần là hiểu liền, mừng hết lớn luôn!
Chơn Ngọc

Monday, June 11, 2012

Nhân duyên




Sau khi trải qua nhiều cuộc hợp tan trong đời, cộng với nghe nhiều băng giảng về nhân duyên CN mới hiểu được chút chút về lý nhân duyên trong cuộc sống đời thường. Hôm nay ghi lên vài hàng chia sẻ cùng các bạn chút ít về sự hiểu biết của mình. CN ghi lên những kinh nghiệm tu tập của mình vào blog này, nhằm để cảnh tỉnh mình cho những lúc gặp những trắc trở trong cuộc đời nên có gì sơ sót mong các bạn thông cảm bỏ qua.

Từ lâu thì CN đã tin là vợ chồng thì phải có nhân duyên nhiều đời, nhiều kiếp lắm mới gặp nhau và ở với nhau tới bạc đầu, còn duyên cạn thì gặp nhau vài năm là chia tay nhau. CN có nghe HT Thanh Từ giảng là vợ chồng phải có cộng nghiệp mới khiến ở chung với nhau được, ví dụ như người con gái số nghèo, nhưng anh con trai số giàu, thì tuy yêu nhau hết lòng cũng không thành vợ chồng được. Hai người phải cùng chung cảnh ngộ mới khiến gặp nhau và cùng nhau chung hưởng những phước báo ấy...

CN thấy rất nhiều cặp, yêu nhau nhiều lắm nhưng không đủ duyên vợ chồng gặp trắc trở đủ mọi chuyện rồi cuối cùng chia tay nhau trong đau đớn, vật vã. Nhiều cặp vợ chồng, khi hết duyên với nhau, thì cũng đành chia tay nhau trong nỗi uất ức, nghẹn ngào...

Hồi hôm nghe băng giảng của Thầy Thiện Thuận kể về 2 vợ chồng ông có con gái 6 tuổi. Đứa bé hay phá phách, làm hư máy vi tính làm mất nhiều tài liệu quan trọng, làm hư hại điện trong nhà. Người chồng đi làm về thấy vậy, không dằn được cơn tức giận đã đá bé gái. Không may đứa bé té lăn xuống cầu thang, bị chấn thương sọ não, vài ngày sau thì chết. Người vợ tức giận quá nên ly dị với chồng luôn... Sau này người chồng bảo là ông rất hối hận về việc làm của mình

Mình phải biết dằn cơn nóng giận, có thể bỏ đi chổ khác liền, nếu không làm cho "đã nư" thì hối hận không kịp.

Bởi vậy, phải nói là trong cuộc sống này "cái duyên" rất "độc"... nó có thể nối lại 2 người, nhưng nó cũng có thể làm ly tán người ta với nhau. Khi hết duyên, cho dù 1 trong 2 người có ráng níu kéo cũng không được... Nhiều người nghĩ mọi việc trong đời sống này hình như là đã có bàn tay vô hình nào sắp đặt sẵn thực ra không phải như vậy. Theo đạo Phật thì đó là do "duyên và nghiệp ". Mỗi ngày mình quán chiếu thật sâu về lý nhân duyên, khi hiểu rõ được sự vận hành của nó, thì mình sẽ sống tùy duyên, có duyên thì hợp, hết duyên thì tan, khi duyên tan rã thì nhờ mình đã biết trước cho nên không bị sốc và buồn nhiều...
Ở đời vui đạo hãy tùy duyên
Đói đến thì ăn, nhọc ngủ khì
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm
Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền
Có lần CN xem trên TV có 2 vợ chồng khi con bị bệnh chết người vợ cũng chia tay với người chồng luôn. Sau đó khoảng 6 7 năm người chồng còn thương vợ nhờ đài truyền hình tìm giúp. Người vợ trong lúc cô đơng cũng không có ai nên cùng nhau tái hợp. Cái này thì CN không biết duyên gì mà ngộ quá?

Nói thì nói vậy, lúc quán chiếu chưa sâu, gặp duyên tan, mất người thân mình cũng vò đầu bứt tai, khóc lóc thảm thiết. Sinh ra trong kiếp người khổ đủ chuyện, chữ "ái " hành hạ biết bao người... Chỉ có quán chiếu "nhân duyên". Ta hiểu khi "hợp" thì đã có mầm mống "tan” nên mình phải chuẩn bị tâm lý sẵn sàng cho mọi chuyện.

Mà CN tự hỏi sống vậy có khổ không ta? Cứ hồi hộp, lo sợ "mất"... hay là cứ vô tư để tới đụng chuyện rồi đau khổ sau. CN chỉ sợ lúc đó mình đau quá, đau không chịu nổi.

Đức Phật thấy hết mọi chuyện sợ mình sống trong "nhà lửa" có nhiều cạm bẫy mà không hay biết. Còn bản thân mình cứ vô tư lo ăn chơi hết mình, không lo lắng xa xôi, tới đâu tính tới đó…. Thiệt tình!

Lửa cháy tới có gì CN réo Sư Phụ cứu, thế là tai qua nạn khỏi liền, khỏi mắc công tu cho mệt… Giỡn thôi nha, mỗi ngày CN niệm Phật thật nhiều, quán chiếu về lý nhân duyên thiệt sâu vậy mà khi đụng chuyện vẫn chưa nhịn nổi như mấy thiền sư thứ thiệt hồi xưa…


Chơn Ngọc

Nhẫn nhục


 Lê Sỹ Minh Tùng
18. Nhẫn nhục
Trên con đường tu đạo chúng ta sẽ gặp rất nhiều thử thách, nhưng trước khi nói về những chông gai trắc trở mà chúng ta có thể sẽ đối diện, chúng ta hãy quay về khoảng 2500 năm trước đây khi Đức Phật quyết định xuất gia xả thân cầu đạo, thì Ngài phải đương đầu với không biết bao nhiêu là trở ngại. Ngài bắt đầu tu thiền rồi cũng không đạt được những điều Ngài muốn, nếu không kiên nhẫn thì Ngài đã bỏ cuộc. Ngài tiếp tục tu theo lối khổ hạnh, hành thân hoại thể trong sáu năm trời cũng không đem lại  kết quả thích đáng nào. 
 
 
    Thử hỏi ở trường họp của một người thường, chúng ta có còn đủ kiên nhẫn để tiếp tục con đường mà chúng ta muốn đi đến nữa không? Sau đó, Ngài tham thiền nhập định trong suốt 49 ngày trước khi Ngài chứng quả Bồ-đề. Sự thành công của Đức Phật không phải là một sự tự thiên mà có, nhưng đây là một thử thách cực độ đức tính kiên nhẫn của một vĩ nhân khi muốn đạt được một chân lý tối thượng để giải thoát cho nhân loại thoát khỏi cảnh sinh tử khổ đau.
Khi đã hiểu sự kiên nhẫn đưa đến thành công lớn như thế, thì chúng ta tự hỏi nhẫn nhục có ý nghĩa gì?
          Nhẫn có nghĩa là nhịn, chịu đựng những cảnh trái mắt, nghịch lòng.
          Nhục là điều sĩ nhục, điều xấu hổ, làm tổn thương đến lòng tự ái của mình.
          Nhưng trong kinh Phạn không có chữ “nhục”, mà chữ nhục ở đây là do những vị Đại sư khi họ dịch kinh điển từ tiếng Phạn sang tiếng Trung Hoa mà ra. Họ đã ghép thêm chữ nhục vào cho nó thêm ý nghĩa. Tại sao mà họ làm vậy?
          Chúng ta còn nhớ trước khi Đạo Phật du nhập vào Trung quốc, thì Đạo Khổng đã phát triển rộng rãi trong xã hội này. Đức Khổng Tử đã lấy Hiếu, Để, Trung,Thư làm gốc và lấy sự sửa mình làm căn bản để mà dạy người. Bởi vậy, người Trung quốc có câu:”Sĩ khả sát, bất khả nhục”, có nghĩa là người trí thức thà chết chứ không chịu nhục. Quý vị thử nghĩ rằng: “thà chết vinh còn hơn sống nhục” thì cái giá trị của chữ “nhục” còn nặng hơn cái chết.
          Bởi vậy, khi dịch kinh sách thì những vị Đại sư ngày xưa đã ghép hai chữ này lại với nhau cho ý nghĩa của nó thật sâu sắc để chúng sinh ngẩm nghĩ mà tu hành.
          Vậy nhẫn nhục là chịu nhục đến chỗ tột cùng không còn ai có thể nhẫn nhục hơn thế nữa.
          Nói như thế thì người tu Phật tại sao lại cần phải nhẫn nhục?
          Con đường tu đạo mà muốn đạt thành viên mãn thì không phải là dễ, chẳng hạn như tu thiền không thể nào một sớm một chiều mà đạt được”minh tâm kiến tánh”, và niệm Phật cũng cần thời gian mới đạt được “nhất tâm bất loạn”. Nhưng trên đời này chúng ta nhẫn cái mà người khác không nhẫn được thì mới thành công được. Muốn thành công nhỏ thì nhẫn nhỏ, nhưng nếu muốn thành công lớn thì chúng ta cần phải nhẫn nhiều hơn. Hơn thế nữa, cổ nhân cũng có câu:”Tiểu bất nhẫn, bất thành đại sự”, có nghĩa là việc nhỏ mà mình không thể nhẫn nhục được, thì việc lớn không mong chi thành công.
          Chúng ta hằng ngày phải đương đầu với rất nhiều cảnh trái tai gai mắt, đó là chưa kể người đời thì ăn ngược nói ngạo, gian tham quỷ quyệt, thay trắng đổi đen. Nếu  không có tâm  nhẫn nhục thì Tham, Sân, Si sẽ nỗi dậy khiến cho Thân, Khẩu, Ý của chúng ta  vọng động và từ đó chúng ta sẽ tạo cho mình những ác nghiệp mà có thể làm trở ngại cho việc vãng sinh sau này. Khi đối diện với nghịch cảnh, chúng ta nên nhớ rằng tất cả mọi việc trên thế gian này đều là vô thường, ngay cả chính cái bản thân của chúng ta cũng vậy, thì dầu cho chúng ta có tranh dành, chiếm đoạt, đánh đập, hay sĩ vả người khác cũng chẳng có ích lợi gì. 
 
 
        Nói như thế không phải chúng ta chọn con đường nhu nhược để sống. Mà con đường chúng ta đi là con đường nhân đạo dựa trên căn bản thêm bạn bớt thù và lấy phương châm là tạo hạnh phúc cho người tức là tự tạo hạnh phúc cho chính mình vậy. Nếu có người chửi mắng mình, thì mình phải bình tỉnh tự nghĩ rằng: Ta có làm gì sai quấy không? Nếu có thì họ sĩ nhục ta là thích đáng rồi, ta không nên cải lại mà chỉ cám ơn họ thôi. Còn nếu ta trong trắng, thì những lời chửi mắng kia đâu có dính líu gì với ta đâu mà phải bận tâm! Ta nhẫn nhục là vì ta có lòng Từ Bi Hỷ Xã, thương người, và không muốn làm người phải đau thương.
 
 
          Nhẫn nhục của lòng từ bi thì khác hẳn với nhẫn nhục do tham vọng, sân si, ái dục thúc đẩy. Bởi vì những nhẫn nhục do ái dục sinh ra, thì họ cố cắn răng chịu nhục một thời, rồi sau đó sẽ tìm phương hại người để trả thù. Đây là đại ác.  Khi nói về chuyện nhẫn nhục để trả thù thì trong truyện Đông Châu Liệt Quốc vào khoảng năm 26 đời Châu Kinh Vương, tức là cùng một thời với Đức Khổng Tử tại nước Lổ, giữa vua Việt là Câu Tiển và vua Ngô là Phù Sai. 
 
 
        Quý vị còn nhớ là Ngủ Tử Tư vì chạy trốn vua Sở Bình Vương đã giết hại toàn gia đình của mình, phải nghĩ cách trốn qua ải, chỉ một đêm mà đầu bạc phơ. Sau ông gặp được vua Ngô là Hạp Lư, cùng với Tôn Vủ đem binh về báo thù nhà, nhưng lúc bây giờ vua Sở mới chết. Lòng thù hận đã khiến ông sai lính quật mồ vua Sở Bình Vương để bằm tử thi nát ra như cám cho hả giận. Khi vua Việt là Doản Thường nghe tin nước Ngô đang bỏ trống, định đánh lén bất ngờ, nhưng Tôn Tử đã giúp vua Ngô lui binh về kịp. Từ đó giữa Việt và Ngô lại tạo thù kết oán. 
 
 
        Khi vua Ngô là Hạp Lư chuẩn bị kéo quân sang báo thù, thì vua Việt là Doản Thường bị bệnh chết, con là Câu Tiển lên thay. Vì không nghe lời can gián của Ngủ Tử Tư là đang lúc người ta có tang mà đánh là bất nhân, vua Ngô bị thảm bại mà chết, cháu là Phù Sai lên thay và thề sẽ trả mối hận này. Khi quân đã hùng mạnh thì vua Phù Sai đánh thắng vua Câu Tiển. Nhưng thay vì giết đi, lại nghe lời nịnh hót của Thái Tể Bá Hi để cho Câu Tiển được hàng. 
 
 
        Trong thời gian bị giam cầm, vì chí lớn, Câu tiển nghe lời Phạm Lải  đi nếm phân của vua Phù Sai để lấy lòng trong khi ông ta đang bệnh. Quý vị có thấy là khi con người đã quyết chí báo thù thì họ chấp nhận làm bất cứ việc gì để có cơ hội phục thù. Vì nghĩ rằng Câu Tiển đã ăn năn nên Phù Sai thả “cọp” Câu Tiển về nước. Sau đó Câu Tiển nghe lời Phạm Lải đem mỹ nhân kế Tây Thi, Trịnh Đán cống sang làm cho Phù Sai say đắm mà quên đi phòng bị. Cuối cùng Câu Tiển đã diệt được Phù Sai.
 
 
          Cái nhẫn nhục của Câu Tiển thì trên đời nầy khó có ai bì kịp bởi vì ở địa vị cao sang tột đỉnh của một vì chúa tể một nước mà cam lòng làm tên giữ ngựa, hốt phân, giữ chuồng mà bề ngoài không tỏ ý oán hận. Việc nếm phân cho Phù Sai càng chứng tỏ sự nhẫn nhục đến tột độ và cho thấy chí phục thù mảnh liệt đã giúp cho Câu Tiển đến chỗ thành công. Nhưng sự thành công nào mà không phải trả giá. Cái giá ở đây là từ khi Câu Tiển nếm phân, ông ta sinh ra bệnh hôi miệng cho nên dù cao lương mỹ vị ông ta ăn cũng không biết ngon. May thay, Phạm Lải tìm được một thứ rau gọi là “rau chấp” dâng cho vua ăn để trừ bịnh nầy. Rau này ăn có mùi hôi nhưng rất hạp với Câu Tiển nên nhà vua cho đặt tên ngọn núi có rau này là Chấp sơn.
          Có nhẫn nhục thì lòng từ bi mới chan chứa, tính thanh tịnh tràn lan, sự nghiệp dâng cao, người người quý trọng, và dĩ nhiên đạo quả viên thành.
          Vì nhận thấy công đức lớn lao và quý báu của nhẫn nhục, nên cổ nhân đã có câu nhắn nhủ với người đời một cách mạnh mẻ như sau:
          Nhẫn nhẫn nhẫn, trái chủ oan gia tùng thử tận.
          Nhiêu nhiêu nhiêu, thiên tai vạn hóa nhất tề tiêu.
          Mặc mặc mặc, vô hạn thần tiên tùng thử đắc.
          Hưu hưu hưu, cái thế công danh bất tự do.
Tạm dịch là:
          Nhẫn nhẫn nhẫn (thân nhẫn, khẩu nhẫn, tâm nhẫn) thì điều trái chủ oan gia từ đây dứt hết.
          Nhịn nhịn nhịn (thân nhịn, khẩu nhịn, tâm nhịn) thì ngàn tai muôn họa đều tan biến.
          Nín nín nín (thân nín, khẩu nín, tâm nín) thì cảnh giới thần tiên vô hạn cũng do đây mà được.
           Thôi thôi thôi (thân thôi, khẩu thôi, tâm đều thôi) thì những công danh cái thế không còn tự do.