Thursday, May 9, 2013

Trời ơi sinh tôi làm chi , để cho tôi khổ như ri hỡi Trời !



 Để cái câu cho kêu mới dụ pà con chạy vào xem chứ ....hìhì....só rỳ ....

LUẬN VỀ TỨ ĐẾ

Thích Quang Phúc


" Cuộc đời " hai tiếng âm vang bao ngọt ngào cay đắng mà mỗi kiếp con người đang nếm trãi trên những tháng ngày một cuộc tồn sinh. Khổ đau đã tồn tại. Những sợi dây trăn trói chằng chịt vây lấy những kiếp người. Những triền miên khắc khoải tâm tư mãi hằn sâu vết chim trên cát vàng mê lộ.
Đức Phật - chẳng phải Ngài đã đem khổ đau đến cho cuộc thế, mà chính là Ngài đã chỉ ra bao nhiêu khổ đau đang ẩn núp giữa cuộc đời. Những khổ đau đang tự biến hình dưới muôn trùng lối nguỵ trang khéo léo, như những hố hầm đang chực chờ dưới bao lớp lá hồn nhiên. Những nổi khổ đau bị che khuất nằm trong cái mà bề ngoài có vẻ thú vị, nhưng trong đó đã có sẵn niềm đau.
Nói thật thì mất lòng. Ngài đã thẳng thừng chỉ ra một lượt, những thủ phạm của khổ đau mà xưa nay bao người cứ ngờ rằng chính là bằng hữu đệ huynh thân thiết. Biết bao người chới với không dám tin vào sự thật : cuộc đời là bể khổ. Ngài
đã nói ra những điều làm phủ phàng đảo lộn cả thế gian. Những sự thật mà thế gian không muốn nghe, không muốn tin, thậm chí còn hẫi hùng khôn xiết. Họ đang nếm vị ngọt ngào của những giọt mật và đang quên mình đang bị vây bủa giữa bao mối hiểm nguy.
Quả là quá sức chịu đựng của thế nhân, khi biết rằng cuộc đời họ là một chuỗi dài những nối kết khổ đau. Có người không chịu nổi đã lớn tiếng la lên : Đức Phật ôi ! Xin Ngài hãy để cho chúng tôi được sống bình yên. Dù cuộc đời thế nào xin được sống hồn nhiên. Hãy an ủi chúng tôi, đừng làm chúng tôi sợ. Hãy nói về những hảo tượng tốt lành trên những tiên triệu bão tố âm u. hãy đem đến thêm những cành hoa đẹp. Hãy trỗi nhạc lên để chúng tôi múa hát. Dù là thế nào, chúng tôi vẫn thích sống vô tư …
Nhưng Ngài đã đem cuộc tử sinh của mình trãi mở ra giữa lòng vạn loại. Đem luật tắc tồn sinh thể nghiệm trên chính sinh mạng của mình. Cũng như họ, Ngài trãi qua bao ngọt bùi cay đắng. Nhưng Ngài đã đứng dậy được mãi mãi sau muôn trùng té ngã. Ngài không thể không nói về chân lý cho một cuộc đứng lên. Bởi vì Ngài đã nhận cho mình một trách nhiệm : Ngăn lại những con đường nguy hiểm, mở ra những con đường đưa đến hạnh phúc an lạc giait thoát cho chúng sanh. Đó là lòng từ mẫn của bậc cha lành, mà chúng sanh đang nổi trôi trong mê mờ mông muội nào biết đến.
Kinh Pháp Hoa chép :" Ba cõi không yên, ví như nhà lửa, các khổ dẫy đầy trong đó rất là đáng sợ, mà chúng sanh không biết, vẫn ở trong đó mặc  ý  vui chơi". Bởi vì sao ? Vì chúng sanh không biết khổ là gì, cũng như không biết lửa là gì, nóng là gì. Cho nên cứ vui chơi thoải mái …
Những nổi khổ trong đời rấtt  nhiềurành rành trước mắt mà con người thường nhìn với con mắt thờ ơ, tưởng chừng như nó không thể động tới mình. Hoặc ỷ tuổi trẻ sức mạnh. Hoặc tưởng thọ mạng dài lâu. Hoặc buông xuôi cát bụi.
Như giọt sương lộng lẫy buổi ban mai, giòng sinh mệnh chảy không ngừng, mau hơn nước ghềnh chảy. Ngày nay tuy tồn tại, ngày mai khó bảo toàn, thế mà cứ buông lòng làm ác . . .
Những khổ đau trong đời cần phải nhận rõ:
1)       Những khổ về sanh: Người chết rồi, thần thức chẳng biết đi về hướng nào. Sống với thân trung ấm thời gian 49 ngày. Gặp khi cha mẹ giao cấu liền chạy vào thai. Bảy ngày ban đầu hình trạng như chất bơ lỏng. Bảy ngày thứ hai như bơ đông đặc. Bảy ngày thứ ba như bơ đông cứng. Bảy ngày thứ tư như lát thịt mỏng. Đến bảy ngày thứ năm mới bắt đầu thành bào thai. Như gió vào trong bụng mẹ mà thổi nơi thân thể, thời sáu căn mới mở khai. Nếu mẹ ăn một bát đồ ăn nóng, thì bào thai như nằm trong chảo nước sôi. Hoặc uống phải một ly nước lạnh thì như nằm trong hàn băng. Và lấn ép thân thể mẹ, mẹ rất đau khổ. Đầy đủ tháng ngày, đứa con mới quay đầu xuống nơi sản môn của mẹ, như hai viên đá ép, mạng mẹ nguy hiểm, lòng cha lo sợ. Ra khỏi lòng mẹ, da thân mỏng tăn, bị phải lá cỏ đụng vào thân như bị dao cắt, hoảng hốt mà thất thanh khóc lớn . . .
" Mới sinh ra thì đà khóc choé .
   Đời có vui sao chẳng cười khì " (Cung oán ngâm khúc )

" Trời ơi sinh tôi làm chi , 
   Để cho tôi khổ như ri hỡi Trời " (Ca dao )
2) Những nổi khổ về già: Chịu nhờ ơn nuôi nấng của cha mẹ, lớn to mạnh mẽ. Nhưng lần lửa đã già, đầu bạc, răng rụng, mắt mờ, tai điếc. Sức mạnh lui dần, nhường cho suy yếu thay thế. Da dùn mặt nhăn, trăm đốt xương đau nhức. Bước đi cực khổ. Ngồi đứng rên hừ hừ. Lòng dạ lo buồn và tinh thần dần dần tiêu giảm.
-         " Mỗi năm mỗi tuổi như đuổi Xuân đi.
       Cái già sồng sộc nó thì theo sau ".

-         " Vì sương cho núi bạc đầu,
       Vì chưng mưa nắng cho rầu nguyệt hoa ".

-   " Lão lai tài tận ".               

-    " Già sinh tật, đất sinh cỏ ".
3)  Những nổi khổ về bệnh:  Thân người có 4 đại là đất, nước, gió, lửa hiệp lại mà thành. Nếu một món chẳng điều hoà thời phát sinh 101 bệnh. Mà 4 đại không điều hoà thì 404 bệnh sanh khởi. Như đại địa chẳng điều hoà thì thân thể nặng nề. Thuỷ đại chẳng điều hoà thì thân thể phù thủng. Hoả đại chẳng điều hoà thì thân thể nóng nảy. Phong đại chẳng điều hoà thì thân thể động chuyển. Cảm giác trăm đốt đau nhức, nên tay chân chẳng cử động theo ý muốn. Khí lực mòn dần, ngồi mà đứng dậy phải nhờ người phù trợ. Miệng khô, lưỡi thụt, mũi ngẹt, mắt chẳng thấy, tai chẳng nghe. Những đồ nhơ nhớp tuôn trào, rồi ngồi nằm trên ấy ! Tâm thần khổ não, giọng nói bi ai buồn thảm. Bà con đến thăm nuôi, ngày đêm chăm sóc chẳng chút nghỉ ngơi. Món ngon, vật quý ngọt thơm, khi đưa vào miệng đều biến thành vị đắng…
-         " Khi mạnh thì muốn sống dai,
       Khi bệnh thì muốn thác ngay cho rồi ".
-         " Hoạ tùng khẩu xuất, bệnh tùng khẩu nhập ".
-         " Có thân phải khổ vì thân,
       Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa ". (Nguyễn Du)
4) Những nổi khổ về chết: Thân người đến lúc sắp chết, thời 404 bệnh nhất tề phát khởi. Bốn đại phân tán, thần thức chẳng an. Gió thổi như dao cắt, đau nhức toàn thân. Toát mồ hôi trắng, hai tay buông xuôi. Phong đại tản đi là hết hơi thở. Hoả đại đi theo là tấm thân lạnh ngắt như đồng ! . . .
-         " Tóc xanh bao nả mà tóc bạc đã đâm,
       Việc mừng chưa xong, mà việc điếu đã tới ". (Trần Thái Tông)
-  "  Chàng ơi ai vẻ cho chàng,
       lá xanh rụng xuống lá vàng trên cây,
       Lá vàng còn ở trên cây,
       lá xanh rụng xuống trời hay chăng trời ". (Ca dao )
5)  Những nổi khổ về tình yêu ly biệt:  Trong ngoài gia đình, cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cháu, giòng họ yêu mến lẫn nhau. Một khi bị phá hoại, lưu vong, mỗi người một ngã. Cha đông, con tây, chồng nam, vợ bắc, hoặc làm tôi tớ cho người, tuyệt vọng những ngày đoàn tụ . . .
-         " Tử biệt sinh ly ".
-         "  Mùi tháng năm đều rướm vị chia phôi,
        Khắp sông núi vẫn than thầm tiển biệt ". (Xuân Diệu)

-         " Vầng trăng ai xẻ làm đôi,
        Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường ". (Nguyễn Du)

-         " Cánh hồng bay bổng tuyệt vời,
       Đã mòn con mắt, phương trời đăm đăm ". (Nguyễn Du)
6) Những nổi khổ về cầu mong chẳng được:
Của mất lại cầu. Muốn quý cầu quan. Muốn sang cầu giàu. Khổ cực tìm cầu đủ cách. Phỏng như cầu được quan sang rồi cũng bị mất, vì lòng tham của dân cướp lấy, lại mong cầu nữa mà nào dễ được đâu … " Trong lúc tìm cầu giàu sang rất khổ. Đã được rồi, giữ cũng khổ. Về sau bị mất, lo rầu lại càng khổ hơn. Xét trong ba thời đều không có vui ". ( Kinh Bách Duyên )
-         " Oan kia theo mãi với tình,
       Một mình mình biết, một mình mình hay ". ( Nguyễn Du)

-         " Một năm là mấy tháng Xuân,
       Một đời người được mấy lần sướng vui ". (Ca dao)
7) Những khổ về gặp kẻ oán ghét:
Con người ở trong cảnh ái dục, một việc chút xíu cũng vẫn tranh giành. Rồi do đó mà giết hại lẫn nhau, gây thành oán lớn. Tuy cố tình tránh mặt, nhưng không nơi tránh thoát. Chỉ còn nước mạnh ai nấy mài dao, chuốt tên, gương cung, nắm gậy … gặp nhau giữa đường hai bên xáp lại. Cuối cùng tất nhiên đôi bên đều bị tồn hại …
-         " Gánh khổ mà đổ lên non,
       Cong lưng mà chạy, khổ còn đuôi theo ".( Ca dao )

-         " Trăm năm trăm tuổi trăm sầu,
       Nào ai lấy khổ làm bầu bạn đâu " ( Ca dao )

-         " Yêu nhau thì ném bả trầu,
       Ghét nhau ném đá  vỡ đầu nhau ra ". (Ca dao)

-         " Yêu nhau cau sáu bổ ba,
       Ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười ". (Ca dao)
8) Những khổ về lo rầu khổ não:
Người sanh ra đời có sống lâu lắm cũng chừng trăm năm là cùng. Lắm kẻ mới vào lòng mẹ liền bị trụt thai. Nay cứ người trăm tuổi mà luận : Hết 50 năm thuộc về ban đêm, 5 năm say rượu hoặc tật bệnh là những năm " bất tri nhơn sự " . 15 năm thơ ấu chưa biết việc gì. Và qua 80 tuổi thời già ngu hết trí huệ : tai điếc, mắt mù không còn biết lễ độ phép tắc gì nữa. Thời gian còn lại chỉ trên dưới 10 năm. Trong khoảng 10 năm ấy chỉ có lo rầu chiếm hết phần nhiều : Lo rầu thời cuộc biến loạn ; Lo rầu về thời tiết , nắng hạn, mưa bão … mùa màng hư mất ; Lo rầu về gia cảnh , vợ con, nội ngoại đau ốm nghèo khổ, của cải mất mát, thân quyến chia ly … Như vậy người sống ở cõi nhân gian chỉ có lo buồn mà phải bị già chết …  ( theo Kinh Pháp Cú Thí Dụ )
-         " Ta còn để lại gì không,
       Kìa non nước chảy, nọ sông cát bồi "
-         " Vai mình mang một quê hương,
       Còn mang nặng cả nổi buồn tử sinh ". (Trần Thái Tông)

-         " Có đàn con trẻ nheo nheo,
      Có dăm món nợ  eo  sèo  bên  tai ".
-         " Trong vòng danh lợi thương ta,
       Cái thân nhăng nhít cho qua với đời ". (Bạch Cư Dị)

-         " Trong vòng danh lợi vinh liền nhục,
       Giữa cuộc trần  ai  khóc trước cười ". (Nguyễn Công Trứ)
Khổ ở thế gian chia làm 8 loại như trên nhưng có thể tóm thâu lại trong  3  thứ là :  khổ khổ,  hành khổ,  hoại khổ :
1)       Khổ  khổ:  Là những nổi khổ chồng chất lên nhau, tác động lên mỗi cá nhân. Ví dụ, đứng trên phương diện nghiệp lực, ở vị trí không gian thời gian của cõi thế gian này có đủ 5 món uế trược là kiếp trược, kiến trược, chúng sanh trược, phiền não trược, mạng trược. Đứng về phương diện đồng biệt nghiệp, thì mỗi cá nhân đang gánh chịu trên mình bao nhiêu vòng cộng nghiệp. . .
-         " Nước mất nhà tan về đâu hỡi,
       Con đau vợ đẻ cực trời  ơi ! "
2)       Hành  khổ: Các pháp thiên lưu không dừng. Tâm niệm trôi chảy tương tục. Ngọn lửa của cây đèn đầu hôm không phải là một với ngọn lửa của cây đèn ấy  ở  cuối hôm. Do nhân duyên hoà hợp hư vọng có sanh, nhân duyên biệt ly hư vọng có diệt. Tất cả chỉ là sự chuyển biến vô ngã.
-         " Các pháp không bền chắc,
  Thường  ở  trong tâm niệm.
  Người thấu đạt lý  không,
  Tất cả  không  khởi niệm ".
3)       Hoại  khổ: Các pháp nhỏ lớn đều có  4  hành tướng là sanh, trụ, dị , diệt. Chuyển biến một cách vô ngã. Nhưng vì chấp ngã, con người cảm thấy xao xuyến, mất mát trước những hiện tượng tâm, cảnh đổi thay. Thật là vô lý phải không ? Nếu chúng ta muốn một cành hoa không tàn, hay tuổi Xuân không bao giờ mất … Hiển nhiên là ta phải chấp nhận bi kịch của trần gian …
-         " Xuân đang tới nghĩa là Xuân đang qua,
      Xuân còn non nghĩa là Xuân đã già,
      Mà  Xuân hết  nghĩa là tôi cũng mất ".  (Xuân Diệu)
Ví như người thầy thuốc, trước khi trị bệnh phải chẩn đoán để biết rõ nguyên nhân, trạng thái … mới có phương cách điều trị cho hết bệnh. Cũng vậy, Đức Phật  trước hết nói về sự khổ ; sau đó nói đến nguyên nhân dẫn đến sự khổ ; nói đến trạng thái khi đã hết khổ và nói đến phương pháp đưa đến trạng thái chấm dứt khổ đau, tức là đạt đến an lạc, Niết Bàn.
Rõ biết sự khổ và các hành tướng của nó, chiêm nghiệm sâu xa về nó, là khâu mấu chốt trong việc điều trị căn bệnh đau khổ truyền kiếp của chúng ta.

Tỉ lệ single Mom ở Mỹ qúa cao

   Sáng hôm qua con gái nhỏ của CN  nói rằng : Mommy , ngày mai ba má của bạn con ra toà ly dị , nên bạn con khg có đi học , mà bạn con nói ba má của bạn " hate each other so much , they can't stand each other " and my friend is very  sad about that , because she's really love both of them " ,  tự nhiên nghe những câu này mình thấy thật tội nghiệp cho bạn của con mình , chỉ vì những " ân oán tình thù " của người lớn mà làm khổ con của họ  . Mà đa số cha ,mẹ ly dị là những đứa con lãnh đủ , thật tội nghiệp ghê vậy đó , nhưng  cũng chẳng lẽ vì con mà những bậc cha mẹ phải chịu đau khổ từng ngày sao ? Vấn đề này thật là khó giải quyết  ?

  Thật ra trên cõi đời này , 1 đứa bé  mới sanh ra , oa oa khóc chào đời là đã bị " nghiệp " cột lấy chặt rồi , dù cho có thông minh và tài ba lỗi lạc đến cỡ nào cũng khg trốn thoát được " nghiệp ", như nhà văn hào Nguyễn Du đã nói : " đã mang lấy nghiệp vào thân , cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa ...." ....chỉ có TU mới giải được nghiệp chướng kiếp này của mình thôi . Mà phải tu bằng cách nào đây ? Là lạy Phật thật nhiều sám hối  những tội lỗi từ vô thủy kiếp xa xưa của mình , và làm phước thật nhiều để tiêu bớt nghiệp cũ của mình , và chấm dứt gây tội ngay bây giờ ......chỉ có con đường này thì mình mới bớt khổ thôi . Chứ CN thấy rất là nhiều người khổ kinh hoàng luôn đó , hỏi ra thì mỗi người mỗi cảnh khổ khác nhau , nhưng tóm lại  thì ai cũng khóc hết nước mắt . Ai ai cũng gặp "oan gia " và "ân gia " , nhưng mình thấy gặp ân gia thì ít , mà oan gia thì đầy ngõ , thậm chí nó trá hình ngay trong nhà mình đang ở rất là nhiều , ai mà gây cho mình qúa nhiều đau khổ đó là oan gia thứ thiệt của mình  đó , thậm chí có thể sẽ lấy mạng mình trong 1 ngày rất gần cũng khg chừng . Mà oan gia nặng nhất là chồng hay là vợ , sống gần nhau mà cứ hục hặc với nhau hoài thì khg có gì mà khổ bằng , rồi nghiệp nhẹ hơn chút là "những bà cô bên chồng " hay " má vợ " , mà mình thấy mấy ông Mỹ sợ nhất là mấy bà " má vợ " đó nghen , chứ người Á Đông mình thì sợ hãi nhất  là nàng dâu với má chồng  , rồi nhẹ hơn chút nữa là anh em , họ hàng và những người  làm chung hãng ....ôi thôi nói chung là tùy nghiệp của mỗi người , còn người mà khg có bị oan gia hành nhiều  thì lâu lâu cũng bị bệnh nhém chết ....sanh ra trên cõi này là cõi khổ mà , ra đời để  chịu khổ , để trả nghiệp xưa ....trả hết nghiệp thì " ngọc hoàng giũ sổ , , mình ôm bộ về quê " ... mà mình trở lại cái vấn đề ly dị nghen , mình thấy trong lớp con của mình , khoảng 3/4 lớp là single Mom  , người Mỹ ở đây họ ly dị khủng khiếp luôn , chắc vì lối sống qúa tự do cho nên khg thích nhau thì chia tay , có con thì có , mặc kệ những đứa con có đau khổ lìa cha hay mẹ gì họ cũng khg care  , như có nhóc  Mỹ con kia học chung lớp với con trai mình , em  kể là ba ,má em ly dị , em ở với ba , mà ba của em cứ lo đi chơi với girlfriend hoài ,  hôm bữa ba em và cô bạn gái say xỉn , bỏ quên xe chạy trong nhà xe , nhém chết hết cả nhà ....và thằng bé học rất dở , vì cha em khg lo lắng chi cả , thật tội cho thằng bé ghê !
 
    Bởi vậy : đời là bể khổ , khg có ai mà khg khổ cả , cho nên khi bị khổ thì mình tự nhủ :  nhiều người còn khổ hơn mình mà , vì cõi đời này cõi khổ  thì ai mà thoát được chứ , chỉ có tu nhiều lắm thì thay đổi tư tưởng mới hết khổ thôi .



Đời là bể khổ...mà chúng sanh lại ko biết bơi...




   Kinh phật có câu: "Nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước biển". Thật thế ! Cõi đời không vui, cõi đời toàn là khổ. Những niềm vui nếu có cũng chỉ là tạm bợ, hào nhoáng như một lớp sương bên ngoài mà thôi; chứ bản chất của cõi đời là đau khổ. Cõi đời là một biển khổ đầy mồ hôi và nước mắt, trong ấy chúng sinh đang bơi lội, hụt lặn, chìm nổi, trôi lặn. Ðó là sự thật. Nhưng sự thật ấy, không ai nhìn thấy một cách tường tận và nói lên một cách rõ ràng.

Sự khổ của thế gian còn được gọi Khổ đế " .Khổ đế do chữ Dukkha mà ra. "Du", nghĩa là khó; "kkha" là chịu đựng, khó kham nhẫn. Dukkha nghĩa là những đau đớn , khó chịu , khó khăn ..... mà con người phải chiu đựng. Khổ đế là những nỗi khổ trên thế gian, những sự thật rõ ràng minh bạch không ai có thể chối cãi được.
Nỗi khổ của con người thì quá mênh mông, quá sâu kín và có muôn dáng vẻ : từ những nỗi đau của bệnh tật cho đến sự dằn vặt của người tội lỗi; từ hoàn cảnh éo le của một cuộc tình cho đến những rối rắm của một con nợ không làm sao giải quyết được; từ sự uất ức của một người nghèo bị ức hiếp cho đến nỗi thất vọng của những kẻ thất bại trên đường đời; từ tâm trạng bất lực trước nỗi đau của người thân cho đến nỗi cô đơn của một con người không tìm thấy được một người nào thân thiết trên đường đời ...
Với đôi bàn tay nhỏ bé, làm sao ai đó có thể ôm trọn nỗi khổ đau của con người ? Với đôi mắt bàng quan, làm sao mmột người có thể hiểu được hết những nhục nhằn của những phận người ? Với tấm lòng nhỏ bé, làm sao có thể thông chia được hết nỗi chua xót dù chỉ là nỗi đau xót của một người mà thôi ?
Nỗi khổ cuộc đời bao giờ cũng mênh mông hơn đôi tay của chúng ta, bao giờ cũng sâu kín hơn tầm nhìn đôi mắt của ta, bao giờ đòi hỏi nhiều hơn tấm lòng nhỏ bé của ta. Đối diện với nỗi khổ của con người, người ta có cảm tưởng như những việc làm của mình chỉ là một giọt nước trong sa mạc nóng cháy, chỉ là một chút an ủi dư thừa đối với một cơn đau xé lòng.
” Đời là bể khổ…mà chúng sanh lại không biết bơi…”

Nhận Được Bản Tâm Chân Thật Của Mọi Vật _ Thiền Sư Ajahn Chah


Bước Thứ 8
   Lý duyên khởi siêu việt đặt trọng tâm ở nhân quả.  Bước kế tiếp theo trong các tầng thiền định là ‘tri kiến về sự vật như chính bản thể của chúng’ (yathabhutananadassana).  Kiến là một kinh nghiệm nội tại và tri là sự nhận biết về điều đó.  Sự nhận biết rõ ràng về ‘sự vật như chúng thật là’ có nghĩa là tri kiến.  Thực tế mà nói, hành giả trước hết phải đạt được các tầng thiền định, sau đó xử dụng sức định và thanh tịnh của tâm để đạt được tri kiến.
   Trong từ ngữ Phật học, tri kiến có nghĩa là sự hiểu biết thông qua kinh nghiệm tự thân về ba đặc tính của tất cả mọi hiện hữu, đó là anicca, dukkha  và anatta (vô thường, khổ và vô ngã).  Vô thường được che đậy bằng thường.  Vì hơi thở liên tục ra vô, ta quên rằng mỗi hơi thở là một hơi thở mới, hơi thở cũ đã bị hoại diệt, không còn ích lợi gì.  Khổ (dukkha) thì được hóa trang bằng sự thay đổi, bằng các chuyển động.  Đôi khi chúng ta trốn chạy khổ đau, tìm quên lãng, thay hình đổi dạng.  Vô ngã (anatta) thì được che đậy bằng hình thể, bằng các khối.  Để thật sự nhận chân được bản thể sự vật, ta phải dẹp bỏ những chướng ngại đã in sâu trong suy nghĩ của ta, khiến ta lầm tưởng sự tiếp nối như là thường hằng, hình thể như là ngã hay thực thể.  Không phải dễ phá vỡ những suy nghĩ nầy vì sự thật là ta không thích vô thường, khổ và vô ngã, vì những thứ nầy hủy diệt cái ngã tưởng mà ta vẫn thường ôm ấp.
   Bước đầu tiên trên con đường giác ngộ là phải tách biệt tâm và thân.  Điều đó có nghĩa là sống với con người nầy, với ‘cái tôi’ không phải là một tổng thể, mà là gồm có thân và tâm.  Trong lúc hành thiền, hơi thở là thân sắc, và sự chánh niệm về hơi thở là tâm.  Khi chúng ta chú tâm vào hơi thở, nhưng chưa chánh niệm đủ để đạt được tâm an lạc, thì ít nhất ta cũng có thể nhận ra hai khía cạnh nầy, là một việc làm hữu ích, thiết thực hơn so với tâm suy nghĩ lăng xăng thường ngày của ta.  Khi chúng ta đã hoàn toàn cảm nhận được hai khía cạnh nầy, thì ‘cái tôi’ hình tướng nầy bắt đầu tan vỡ.
   Thân và tâm có mặt ở khắp mọi nơi.  Có thể không phải là cái tâm mà ta thường biết, nhưng ngay chính một cái cây hay một hiện tượng tự nhiên nào cũng ước muốn được hiện hữu, nếu không nó đã không thể sinh tồn.  Khi ta có thể hiểu rõ về thân và tâm ngay nơi bản thân, thì ta cũng có thể nhìn thấy được điều đó ở tất cả mọi thứ quanh ta.  Ta có thể quán xét điều đó ở nội tâm cũng như ngọai tại.
   Đức Phật đã dạy: “Tất cả vũ trụ nầy, hỡi các tỳ kheo, đều nằm trong thân dài một trượng và tâm nầy”.  Chúng ta có thể bắt đầu quán sát thực tế cơ bản bằng các đề mục thiền quán, rồi phát triển sự hiểu biết đó rộng hơn đến với tất cả những gì chúng ta quan sát.  Tâm và thân tùy thuộc vào nhau, nhưng không giống nhau.  Nếu không hiểu được điều cơ bản nầy, ta khó mà có thể tiến sâu hơn vào tri kiến.  Ta sẽ bị chướng ngại bởi “Đúng rồi, nhưng mà. . . “ là những biểu hiện của lòng nghi hoặïc.  Chúng ta cần hiểu rằng chính tâm là chủ, tâm sai khiến thân.  Ngay chính như hơi thở, là điều thiết yếu cho sự sống, cũng có thể bị tâm điều khiển.  Ta có thể bảo hơi thở ngưng lại trong giây lát, bảo nó hít sâu vào, bảo nó chậm lại.  Dầu hít thở là hành động tự nhiên của thân, nó cũng có thể bị tâm sai khiến.
   Sau nầy, ta có thể nhận thấy rằng cả thân lẫn tâm đều không phải là những thực thể rắn chắc, trái lại chúng bao gồm những chuyển động, do nhiều thứ làm thành.  Mỗi tư tưởng là một chuyển động của những thôi thúc trong tâm.  Còn thân dầu có vẻ như rắn chắc; nhưng với chánh niệm ta có thể cảm thấy đó là những chuyển động tiếp nối.  Khi ta theo dõi hơi thở sâu lắng, rồi vào định, chúng ta sẽ nhận thấy ngay mỗi hơi thở cũng chứa đựng sự chuyển động, và không bao giờ là một hơi thở trọn vẹn.  Nó có bắt đầu, ở giữa và ở cuối, và luôn thay đổi.  Khi tâm hành của ta đã tượng hình rõ ràng, ta sẽ thấy có những đặc tính lên xuống, giống như dòng điện.  Chúng ta đạt được sự hiểu biết sâu xa hơn về trạng thái của ngã, cái trước đây dường như là quá bền vững, cụ thể.  
   Những gì dường như rắn chắc đối với chúng ta thực ra giống như bụi trong không khí mà ta có thể thấy xuyên qua ánh nắng.  Đối với thân cũng thế.  Đã kinh qua, hiểu được thực trạng nầy, gíup chúng ta một bước trên đường tiến tới tri kiến.  Nhưng nếu chỉ biết, chỉ tư duy như thế vẫn chưa đủ.  Đó chỉ là bước khởi đầu, phải biến điều đó thành một kinh nghiệm thực sự.  Ngược lại, chỉ có kinh nghiệm thôi, mà không có sự hiểu biết, cũng không ích lợi gì.  Chánh niệm, cảnh giác cũng là một trạng thái chuyển biến, giống như khi ta nhận biết sự đổi thay, sự thiếu vắng hình tướng trong các cảm thọ.
   Nếu những khía cạnh nầy có thể được nhận thức bằng chính kinh nghiệm bản thân, chứ không phải qua sách vở, thì ta sẽ nhìn sự vật bằng con mắt khác.  Ta sẽ cảm nhận được một thực tế là chỉ có những hiện tượng vô thường hiện hữu.  Do đó ta sẽ có thể buông được sự chấp chặt, bám víu vào các hiện tượng nầy.  Hình tướng, sự tiếp nối dẫn đến bám víu.  Khi chúng ta có thể chứng nghiệm được điều ngược lại trong thiền định, là chúng ta mở được đường đến trí tuệ thực sự.
   Giờ chúng ta đã có được sự hiểu biết về các duyên sanh, có nghĩa là ta nhận thức được rằng tất cả mọi sắc thân, tất cả các hình tướng, đều bao gồm bốn yếu tố chính.  Chúng ta có thể cảm được nhiệt độ nóng, lạnh trong cơ thể, hơi thở gió, nước ở mồ hôi hay nước miếng, và yếu tố đất trong xương, da thịt của thân.  Chúng ta có thể nhận thức được rằng các yếu tố nầy tự chúng không hoàn chỉnh, không độc lập, mà tùy thuộc vào các yếu tố tương ưng để hiện hữu.  Vì các yếu tố luôn thay đổi, thân ta lại tùy thuộc vào chúng, nên cũng thay đổi luôn; khiến thân nhiều khi không được an.  Điều đó dễ chứng nghiệm, dẫn đến tri giác về cái khổ phát khởi nơi thân.
   Ngay chính tâm thức ta cũng bị điều kiện hóa.  Tư tưởng phát sinh do bởi có sự xúc chạm của các căn.  Căn xúc chạm sinh ra cảm thọ, suy tưởng và các tư tưởng liên đới tiếp nối theo.  Sự vận chuyển của tâm tùy thuộc vào sự tiếp xúc của –thấy, nghe, ngửi, nếm hay suy tưởng.  Khi thiền quán, ta sẽ thấy các chuỗi phản ứng qua sự tiếp xúc của các căn, được tiếp nối bằng cảm thọ rồi suy tưởng hay đặt tên, rồi mới đến quá trình tư duy (thường là ưa thích hay ghét bỏ), ta nhận biết đó là một thực trạng, chứ không phải chỉ là sự suy diễn.  Khi có cảm giác đau, tâm liền phản ứng, muốn loại bỏ cái đau; đó là do sự xúc chạm đưa đến cảm giác khó chịu.  Tâm nghĩ đó là đau, rồi phản ứng lại bằng cách ghét bỏ, muốn chạy trốn nó.  Nếu chúng ta theo dõi quá trình nầy trong thiền quán, ta có thể thấy tất cả đều là các trạng thái của tâm, là các trạng thái hình thành dựa vào các những điều kiện tiềm ẩn, không trọn vẹn, không độc lập.  Từ đó đưa đến nhận thức rằng không có ai làm chủ cả.  Nếu có ‘cái ngã’ thì chắc rằng ‘cái ngã’ đó sẽ có đủ khôn ngoan để chỉ nghĩ đến những tư tưởng hạnh phúc, chỉ có tạo cảm thọ an lành.
   Quán sát các lạc hay khổ thọ, và các phản ứng của ta đối với chúng, giúp ta nhận ra những yếu tố trong việc ‘taọ ra cái ngã’.  Hiểu được rõ ràng như thế, ta có thể ứng dụng sự hiểu biết nầy vào đời sống hằng ngày.  Chúng ta không còn phải tin vào những gì tâm bày ra, mà biết rằng tất cả đều được tạo ra do duyên sanh, do một tác động nào đó.  Tất cả tuỳ thuộc vào ta để chuyển tâm theo hướng thiện.
   Khi đã nhận thức được những sự thật nầy, khi đã quán tưởng sâu xa về chúng, xem xét tính trung thực của chúng, thì ta sẽ có thể thiền quán về chúng hữu hiệu hơn trước đó nhiều.  Các tri kiến nầy là một diễn biến tự nhiên.
   Vì tâm và thân do duyên sinh, suy ra cũng có nhân duyên đưa đến sự hiện hữu của ta, đó là, ái và vô minh.  Vô minh ở đây có nghiã là không nhận biết sự thật tuyệt đối, và ái ở đây là ‘ước muốn được hiện hữu’.  Các duyên nầy cấu thành uế nhiễm, khiến ta có những hành động bất thiện.  Ngay cả các hành động thiện của ta cũng dựa trên ý niệm ngã, do đó cũng mang đến những hậu quả.  Nhận thức về các nhân duyên cần phát triển xa hơn đến các nghiệp quả của chúng ta, chúng không phải do định mệnh hay tai nạn, mà do chính các hành động có chủ ý của ta.  Giáo lý của Đức Phật thường được coi là giáo lý về nhân quả.  Đó là một giáo lý có tính phân tích, vì muốn thật sự tìm hiểu sâu xa về bản ngã của chúng ta như là một hiện tượng, ta cần phải phân tích.  Đó không chỉ là việc đưa ra những kết luận hợp lý, mà đúng hơn là xử dụng những cái thấy ở nội tâm, dựa trên sự chứng nghiệm của bản thân.
   Giờ chúng ta đi vào một khía cạnh quan trọng nhất của tri kiến, đó là, sự quán sát về sinh diệt, là đặc tính của vô thường.  Tất cả những gì do duyên sinh đều hoại diệt, vì tất cả nhân duyên cũng hoại diệt.  Khi chúng ta nhận thức được rằng hơi thở vô đã hoại diệt, và một hơi thở khác đã thay vào đó, rồi hơi thở tiếp theo cũng hoại, để một hơi thở khác lại nối tiếp, chúng ta đã suy ra được tính không của ‘ngã’.  Thay vì để tâm nghĩ suy về những việc không quan trọng của quá khứ hay tương lai, ta cần hướng tâm đến tính cách vô thường của vạn pháp.
   Sự sinh diệt của hơi thở vào ra dễ quán sát, dễ hiểu.  Sự sinh diệt của tâm khi quán sát hơi thở cũng hiển nhiên khi ta nhận thức đó cũng chỉ là một tâm hành, một sự biến chuyển.  Mọi biến chuyển đều sinh diệt, hàm chứa trong đó sự khó chịu, vì thế sinh ra khổ (dukkha) là điều tất nhiên.  Cái khổ nơi hơi thở khó nhận thấy, vì ta cần phải thở để sống.  Song trên thực tế, bất cứ sự chuyển biến không ngừng nào cũng gây ra những kích thích không ngừng, là nguyên nhân của khổ.  Do đó, không có lý do gì để ngạc nhiên khi thế giới tràn đầy đau khổ, vì không bao giờ ta có thể tìm được sự thỏa mãn hoàn toàn trong vô thường.
   Dầu cho đó là một cảm xúc, một cảm giác, một tư tưởng, một hành động, hay một chuyển động vật lý, tất cả đều mang tính chất vô thường.  Ngay tại đây hãy quán sát những chuyển động của thân, vì đó là những bằng chứng hiển nhiên nhất.  Ta không thể đi một bước chân mà không có sự sinh diệt.  Không thể giở một cánh tay lên, hay thay đồ, mặc đồ mà không có sinh diệt.  Chúng ta có thể nhận thấy tuyên ngôn của chánh Pháp trong mọi hiện hữu, mọi sinh hoạt của ta.  Nhận thức rõ ràng như thế giúp ta chế ngự lòng nghi hoặc, giúp ta có nhiều động lực hơn để tu tập.  Lòng nghi hoặc giống như cái thắng xe, nó kiềm hãm ta lại, như khi ta lo âu về con đường đạo, về thầy dạy của ta.  Khi không còn lòng nghi hoặc, sức mạnh, nghị lực được tự do lao về phía trước để mở ra con đường đưa đến tri kiến mới mẻ.
   Tri kiến là bước đến kế tiếp.  Chúng ta quán sát năm uẩn là kết hợp của ta: thân hay các hành động, tâm gồm các cảm giác, các khái niệm, tâm hành hay tư tưởng và các căn thức.  Khi quá trình sinh diệt đã trở nên rõ ràng đối với chúng ta, nó sẽ giúp ta có một cái nhìn thấu đáo về bản ngã, về tha nhân để ta không còn phải sân hận với ai, vì ta biết rằng sân chỉ là một trong những chướng ngại sinh diệt.  Chúng ta cũng không cần phải luyến ái người nào, vật nào, vì đó cũng là một trong năm chướng ngại phát sinh, rồi hoại diệt.  Hiện tại, năm chướng ngại nầy nắm vai trò quan trọng trong tâm thức ta.
   Trước hết, cần phải quán sát năm chướng ngại nơi chính bản thân.  Những gì ta không biết nơi mình, ta cũng sẽ không bao giờ biết nơi người khác.  Ta đã biết về những chuyển biến của hơi thở, của thân –sự hoại diệt, già nua, biến đổi.  Ta biết về những cảm xúc của mình, và quán sát chúng trong lúc tọa thiền, cũng như lúc rời chiếu thiền.  Khi ta đã tìm được niềm vui trong thiền định, thì ta có thể tiếp tục sự quán sát nầy khi tọa thiền trong một thời gian dài, mà không bị phân tâm.
   Chúng ta cố gắng để không bị kẹt vào các khiá cạnh bền chặt của thân ta, của tha nhân, trái lại luôn quán sát năm uẩn. Chúng ta có thể thấy sự hiện diện của năm uẩn ở mọi thứ quanh ta, để quán sát sự biến đổi không dừng của chúng.  Cây mọc lên, già cỗåi, rồi chết; cành lá đâm chồi, héo úa rồi tan rã, và tất cả mọi thứ hiện hữu khác cũng thế.  Giây phút chứng ngộ nầy là giây phút quan trọng trong tiến trình hướng đến tuệ giác.
   Nhận thức về sinh diệt dần sẽ đến một giai đoạn trong thiền định khi chỉ còn có sự hoại diệt được quán sát.  Chúng ta chỉ thấy khiá cạnh đó vì sự chú tâm của ta đã vi tế hơn, đến độ nó gắn chặt với sự tận cùng của từng hơi thở, và sự hoại diệt của từng biến chuyển của tâm.  Ở thời điểm đó, có thể ta sẽ cảm thấy sợ hãi, vì không còn gì để bám víu, nắm bắt.  Mọi thứ dường như tan rã dưới mắt ta, và điều đó ảnh hưởng đến bản ngã cũng như mọi hiện hữu quanh ta.  Dầu hiện tại mọi thứ dường như bền chắc, nhưng khi đã đạt định, và tri kiến phát sinh, ta không thể chối bỏ sự hoại diệt, cũng như những cái thấy thông thường của ta chỉ là ảo giác.
   Nếu thân tâm không luôn biến đổi, hoại diệt, thì chúng sẽ bền chặt mãi mãi, là điều không thể xảy ra.  Tất cả các duyên đều luôn biến đổi.  Khi đã có được sự nhận thức đó trong thiền định, cũng như trong sự hiểu biết của mình, thì khó tránh được cảm giác sợ hãi chế ngự.  “Tôi sẽ làm gì đây?”  Không còn gì để bám víu nữa.
     THAM VẤN
Thiền Sinh (TS):  Chúng ta là do ái dục, vô minh mà ra.  Vậy còn những sinh vật khác –chúng do nhân duyên gì mà ra, thưa Ni Sư?
Ayya Khema (AK):  Cũng do các nhân duyên đó.
TS:  Cảm ơn Ni Sư.  Nhưng con phải suy nghĩ thêm về điều đó. 
AK:  Đừng suy nghĩ, mà hãy quán tưởng về đề mục nầy khi tọa thiền.  Không cần phải quán về tất cả năm uẩn; chỉ cần quán triệt một trong năm cũng đủ để có trí tuệ.  Nhưng trước khi thiền quán về đề mục đó, trước hết hãy để tâm an định, vì tâm có những khả năng không thể lường được khi đã an định.
TS:   Thưa Ni Sư, khi Ni Sư bảo rằng vì tâm không tuân theo những gì ta thích suy tưởng, nên ta không hiện hữu, con thấy thắc mắc.  Làm sao mà ta không hiện hữu được?
AK:  Không đúng như thế.  Là không có ‘người chủ’.
TS:   Không có người chủ?  Có thể nào tâm ta lại thuộc về ai đó?  Ni Sư có hiểu ý con không?  Con không biết phải ứng dụng điều đó như thế nào?
AK:   Không phải tâm thuộc về người khác.  Ta có thể nhìn thẳng vào tâm và nói rằng: “Đây là tâm chưa được rèn luyện; nó chỉ làm theo ý của nó.  Nếu ta có quyền hạn gì trong vấn đề nầy, nếu ta thực sự làm chủ nó, nó đã không hành động như thế.”  Nói vậy có lẽ dễ hiểu hơn.
TS:   Điều đó làm con thấy bứt rứt vì tâm không được rèn luyện của mình.
AK:   Tốt, vì nó khuyến khích em phải rèn luyện tâm.
TS:   Ni Sư có nói rằng định nhất thời cũng có thể đưa đến tri kiến, nhưng chưa đủ để đạt thanh tịnh.  Tri kiến thường phát sinh trong các thời toa thiền sao, thưa Ni Su?
AK:  Có thể phát sinh, nhưng sự định tâm nhất thời cũng chỉ mang đến sự hiểu biết nhất thời.  Tuy nhiên, tri kiến đó không mất đi.  Khi ta đã đạt được tri kiến trong lúc tham thiền, tâm ta có thể đủ vắng lặng để đưa đến trạng thái tĩnh lặng.
TS:   Tri kiến chứng nghiệm được có phai mờ trong ký ức không, thưa Ni Sư?
AK:   Đã hiểu thấu đáo một việc gì, thì cả nội tâm ta cũng thay đổi theo.
TS:   Vậy tri kiến không phải vô thường, luôn biến đổi sao?
AK:   Chắc chắn là biến đổi.  Nhưng nếu ta có thể hiểu được như thế, thì đó cũng là tri kiến.
TS:   Con không hiểu tại sao tri kiến có thể thường hằng, đồng thời cũng duyên sinh, vì đó không phải là niết bàn.
AK:   Tri kiến có thể đưa chúng ta đến điểm mà tiếp theo đó là niết bàn.  Nhưng cái tri kiến mà ta đang bàn đến chỉ là những bước bắt đầu.  Ta đều cần tất cả để đi đến niết bàn, vì chúng tạo ra một sự phát triển bền vững của tri kiến.  Có thể đến một điểm nào đó, sự phát triển sẽ dừng lại; lúc đó, tri kiến đã đạt đến đỉnh cao.  Khi đã đạt được một trong những điều nầy, ta khó lòng có thể đánh mất chúng.
TS:   Thưa Ni Sư, theo  Thiền tông, con hiểu rằng khi tâm đã không còn bám víu, thì tâm đến gần với trạng thái tự nhiên chân thật.  Con không biết  Nguyên Thủy nghĩ sao về vấn đề nầy?
AK:   Đức Phật đã dạy rằng giáo lý của Ngài là một giáo lý thấm nhuần, và đã so sánh với một biển nước.  Nếu ta từ trên bãi biển tiến dần xuống nước, thì trước hết chân ta thấm nước.  Khi đi sâu ra hơn nữa, thì đầu gối, rồi hông, và cuối cùng là đến vai thấm ướt.  Đến lúc đó, ta có thể trầm cả người xuống nước.  Đó là con đường của tri kiến, giác ngộ.  Đó là một giáo lý thẩm thấu, chứ không phải là một cách thúc ép tâm vào một góc, buộc tâm phải buông bỏ mọi quan điểm.
TS:   Thưa Ni Sư, nếu chúng ta có thể ví mọi ảo tưởng về ngã như một thân cây, và các cành cây là các loại ảo tưởng về trạng thái của thực tại, thì con nghĩ rằng tri kiến giống như cắt bỏ các cành cây ấy.  Ta cắt dần các cành cây, rồi cuối cùng đốn ngã cả thân cây.
AK:  Tri kiến có nghĩa là ta nhìn cái thực tại tương đối nầy với cái nhìn hoàn toàn mới, là thân cây vẫn còn đó, nhưng với những hệ thống giá trị khác.
TS:   Con không hiểu sự khác biệt giữa thân và tâm, thưa Ni Sư .  Có phải thân bao gồm thân xác nầy và năm uẩn?
AK:   Một uẩn.
TS:   Ni Sư dạy phải quán sát những biến chuyển của tâm.  Các uẩn thuộc về tâm không mang đặc tính của vô thường, khổ và vô ngã sao?
AK:   Chắc chắn là có rồi.  Sự biến chuyển là vô thường, và vì vô thường, nên có khổ và vô ngã.  Biến chuyển sinh ra động, không bền chắc, do đó là nguồn gốc của khổ đau.  Trước hết ta phải quán sát những thực tại nội tâm để có thể chứng nghiệm được điều đó.
TS:   Thưa Ni Sư, con nghĩ là không có sự khác biệt giữa thân và tâm, vì, thí dụ, không thể tách cái nghe ra khỏi âm thanh.
AK:   Tâm giúp ta cảm nhận được âm thanh; tai chỉ nghe.  Để có thể bỏ được cảm giác về sự bền chắc, ta cần phải mổ xẻ con người bền chắc nầy ra từng phần.  Đó là cái nhìn của tri kiến.
TS:   Đôi khi con có thể nghe được âm thanh mà không có gì khác nữa, thưa Ni Sư.
AK:   Khi chỉ có âm thanh, đó là khi sự xúc chạm đến với tai.  Ngay giây phút ta nói rằng: “Đó là tiếng còi”, thì tâm đã vận hành, đã suy tưởng.  Tai không thể nói: “Đây là tiếng còi”.  Trên bình diện của chân lý tuyệt đối, ta chỉ nghe có âm thanh.