Monday, July 27, 2009

LỜI GIẢNG GIẢI ĐẠI BI CHÚ

I) Duyên do phát khởi bài Đại Bi Chú:

Bài Đại Bi Chú chính là khẩu quyết của đức Quan Thế Âm, trong đó bao gồm lòng từ bi, lòng vô thượng bồ đề, cho đến việc cứu độ nhân, tu đạo thành Phật. Trong bài chú này, mỗi chữ mỗi câu đều bao hàm công phu chân thực về chính đáng chính giác, tuyệt đối không chúg mảy may hư ngụy. Tra kỹ bản chú, được biết đó là bộ phận chủ yếu của cuốn Đại Bi Tâm Đà La Ni Kinh của đức Quan Thế Âm. Tất cả có 84 câu được đặt tên là “Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm Đà La ni Kinh đại bi thần chú”. Nguyên do đặt tên kinh như vầy là: có một lần Đức Phật Tổ nói với A Nan tôn giả rằng: bài chú này có rất nhiều danh xưng như: Quảng Đại Viên Mãn, Vô Ngại Đại Bi, Kinh Cứu Khổ Đà La Ni, Diên Thọ Đà La Ni, Diệc Ác Thú Đà La Ni, Phá Ác Nghiệp Chướng Đà La Ni, Mãn Nguyện Đà La Ni, Tổ Siêu Thượng Đà La Ni. Còn nguyên do bài chú này được đặt tên là Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát là: có một lần Quan Thế Âm đứng tại điện Thiên Quang Vương tĩnh trú Như Lai trú vô thì, trong kinh tĩnh trú, đức Như Lai đặc biệt nó rõ về kinh Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Đà La Ni, đồng thời Ngài cũng nói với Quan Thế Âm: hỡi Thiện Nam Tử, ngươi nên bền lòng trì tụng bài chú này, sẽ có tác dụng lớn trong việc tế độ chúng sinh trong những ác nghiệp của các kiếp sau. Căn cứ vào sự ghi ghép trong kinh điển, lúc đó Quán Thế Âm Bồ Tát sau khi nghe được bài chú này, đọc từ Sơ địa chứng đến Bát địa và Bất động địa, rồi Ngài phát ra lời nguyện: cầu xin cho kiếp sau của tôi phổ độ, làm vui cho tất cả chúng sinh, mong cho tôi được ngàn mắt ngàn tay. Sau khi phát nguyện, thời chỉ trong phút chốc toàn thân Ngài đã xuất hiện đủ ngàn mắt ngàn tay, đồng thời mười phương đất đều chấn động, và chư Phật mười phương đều phóng ra ánh sáng vô cùng rực rỡ, soi sáng khắp cả thế giới mười phương, và cũng do đó, mà bản chú này có nhiều danh xưng khác nhau, Kinh Thích Tôn Tăng cũng nói về thuyết A Nan: kết quả này là cũng nhờ vào lời hoằng nguyện của đức Quán Thế Âm. Đức Bồ Tát cũng đã từng đứng ở nơi Quán Thế Âm và phát lời thệ nguyện: ước mong tất cả mọi người ngày nào cũng nguyện đến tên ta, cũng nên niệm đức Như Lai Bản Sư A Di Đà. Sau đó mới đọc bản chú Dà Na Ni này. Nếu mới đem trì tụng đủ được năm lần, có thể trù diệt được trăm ngàn ức kiếp sinh tử trọng tội. Còn những ai trì tụng được Đại Bi Chương Cú, thời vào lâm chung, chư Phật mươi phương đều đến dắt tay tiếp dẫn, đồng thời, cũng cho được toại nguyện là muốn tới quốc thổ nào của nhà Phật. Những ai trì tụng Đại Bi Tâm Chú, sẽ được 15 loại thiện sinh và tránh được 15 loại ác tử. Vậy thế nào là 15 loại ác tử?

1) Không bị chết khốn khổ về đói khát, loạn lạc.
2) Không bị chết vì giam cầm, đánh đập.
3) Không bị chết vì thù oán.
4) Không bị chết nơi trận mạc.
5) Không bị chết vì sài lang, ác thú.
6) Không bị chết vì rắn rết.
7) Không bị chết cháy hay chết đuối.
8) Không bị trúng độc vì ăn uống mà chết.
9) Không bị các loại trùng độc sát thương.
10) Không bị cuồng loạn hay thất vọng mà chết.
11) Không bị cây cối rơi trúng hoặc sa hầm sa hố mà chết.
12) Không bị người khác trấn yểm mà chết.
13) Không bị tà thần, ác quỷ làm cho chết.
14) Không bị chết vì ác bệnh.
15) Không bị chết oan phi mệnh (tự tử)

Còn thế nào là 15 loại thiện sinh:

1) Nơi mình sinh ra thường gặp 5 điều lành.
2) Thường sinh ở nước lành (thiện quốc).
3) Thường gặp thời hay thời tốt.
4) Thường gặp bạn lành, bạn tốt.
5) Thân căn thường được đầy đủ (thân hình trọn vẹn).
6) Đạo tâm luôn được thuần thục.
7) Không phạm cấm giới.
8) Tình anh em quyến thuộc đều được hoà thuận.
9) Trọn đời cơm áo phong lưu.
10) Luôn luôn được mọi người cung kính giúp đỡ.
11) Tài sản, của cải không bao giờ bị cướp đoạt.
12) Mọi sở cầu đều được toại nguyện.
13) Luôn luôn được Long Thiên Thiện Thần hộ vệ.
14) Nơi mình sinh ra thường được Phật nghe thuyết pháp.
15) Khi nghe được chính pháp là hiểu ngay được ý sâu xa.

Vì những lý do kể trên, Đại Bi Chú có thể trừ được hết thảy mọi tai nạn và các bệnh nói trên, thành tựu mọi thiện pháp, xa lánh được mọi sự sợ hãi. Vì vậy, chúng ta nên hết lòng thành kính, đức tin và lòng thành kính trì tụng bài chú này, mới có thể khế hợp được Đại Bi Tâm của đức Bồ Tát, và nhiều điều lợi ích cho bản thân. Kiếp trầm luân thường thấy ở tam giới ngũ thú chúng sinh. Nếu ta thường xuyên trì tụng bài Chú Đại Bi, không những trị được tất cả các thân bệnh, tâm bệnh, mà còn có thể thoát được vòng sinh tử hồi sinh. Điều này đã được chứng minh rất nhiều trong lịch sử.

II) Phần dịch theo câu và ý của bài ĐẠI BI CHÚ:

Nam mô (Quy y) - Hắc Ra Đát Na Đá Ra Dạ Da (Tam Bảo, tức Phật, Pháp, Tăng) - Nam Mô (quy mệnh) - A lị gia (Thánh) - Bà Lô Kiết Đế (Quán) Thước bát ra da (tự tại) - Bồ Đề Tát Đỏa Bà Da (Giác hữu hình) - Ma ha tát đỏa bà da (Đại giác hữu tình) - Ma ha ca lô ni ca da (hữu đại bi giả, người có lòng đại bi) - Án (quy mệnh) - Tát bàn ra phạt duệ (nhất thiết tôn) - Số đát na đát tả (Vị cứu tế hết thảy mọi sự khủng bố) - Nam mô (quy mệnh) - Tất kiết lật đỏa (Ư bỉ, ở kẻ kia) - Y mông a lị gia (ngã thánh, thánh của ta) - Bà lô kiết đế thất Phật ra lang đà bà (quán tự tại Hương sơn) - Nam mô (quy mệnh) - Na ra cẩn trì (đó là uy lực của thánh quán tự tại, tên là Tanh cảnh chi Tâm Chân Ngôn) - Hê rị ma ha bàn đá sa mế (ta nay tuyên thuyết) - Tát bà a tha đậu du bằng (vị có hết thảy mọi hy vọng viên mãn có ánh sáng rực rỡ) - A thệ dựng (không gì sánh được) - Tát bà tát đá na (hết thảy mọi quỷ thần không thể đánh thắng được) – Má bà tát đá, na ma bà dà (đồng chân) - Ma phạt đạt đậu (người có đạo thời khiến cho cõi mê tự nhiên thanh tịnh) - Đát điệt tha (có nghĩa là) - Án (quy mệnh) - A Bà Lô Hê (bậc có trí tuệ sáng suốt) – Lô Ca Đế (quán tự tại) - Ca Ra Đế (Đấng siêu việt thế gian) - Di Hê Lị (vu sư tử vương) - Ma ha bồ đề tát đỏa (Đại Bồ Tát) - Tát bà tát bà (hết thảy hết thảy) - Ma ra ma ra (ghi nhớ, ghi nhớ) - Ma hê ma hê ri đà dựng (tâm chân ngôn) - Cu lô cu lô kiết mông (làm sự nghiệp) - Đồ lô đồ lô (bảo trì, bảo trì) - Phạt xà da đế (Du Không Giả, ngươi chơi ở trên không) - Ma Ha Phạt Xà Da Đế (Đại Du Không Giả) - Đà la đà la (bảo trì) - Địa ri ni (kẻ trì tụng) - Thất Phật ra da (Đế Vương tự tại) - Dá ra dá ra (hành động) - Mạ mạ phạt ma ra (vô cấu giả, không bụi bám) - Mục đế lệ (vô cấu thể, thể không dơ) - Y hê y hê (giáo ngữ) - Thất na thất na (hoằng thệ, lời thề rộng rãi) - A ra sâm (vương, vua) Phật ra xá lợi (giác kiên cố tử) - Phạt sa phạt sâm (hoan hỷ) - Phật Ra Xá Da (trừ diệt mọi độc hại do tham sân si gây ra) - Hô lô hô lô ma ra (tác pháp vô cấu, làm phép không nhiễm bụi dơ) - Hô lô hô lô hê rị (mau chóng mau chóng, tóc đã bạc rồi) - Ta ra ta ra (kiên cố giả) - Tật ri tật rị (hoặc hoa sen) - Tô rô tô rô (cọng hoa sen) - Bồ đề dạ bồ đề dạ (tỉnh ngộ tỉnh ngộ) - Bồ đà đạ bồ đà dạ (giáo ngộ giáo ngộ, dạy bảo và tỉnh ngộ) - Di đế rị dạ (kẻ có lòng từ ái) - Na ra cẩn trì (thanh cảnh, cổ xanh) - Địa rị sắt ni na (kiên lợi, bền chắc linh lợi) - Ba dạ ma na (danh văn, nghe tên) - Ta bà ha ( lòng mong mỏi được gặp, sẽ được ảnh hiện, sanh lòng hoan hỷ, viên mãn, tới Niết Bàn) - Tất đà dạ (nghĩa) - Ta bà ha (Bậc đã được thành tựu) - Ma Ha Tất Đà Dạ (đại nghĩa) - Ta bà ha (Bậc đã được thành tựu) - Tất đà du nghệ (vô vi) - Thất bàn ra dạ ( Bậc đại tự tại) - Ta bà ha (Bậc Tự Tại bởi Tất Địa và Du Già) - Na ra cẩn trì (hiền ái) - Ta bà ha (vi tahnh cảnh viên mãn nên thành tựu) - Ma Ra Na Ra (có mặt heo) - Ta bà ha (thành tựu) - Tất ra tăng a mục khư gia (ái ngữ đệ nhất nghĩa, nghĩa thứ nhất của tiếng yêu) - Ta bà ha (tay cầm hoa sen) - Ta bà ma ha (đại thành tựu) - A tất đà dạ (vô tỷ, không có gì sánh được) - Ta ba ha (thành tựu) - Giả kiết ra a tất đà dạ (không gì so sánh được) - Ta bà ha (thành tựu) - Ba đà ma kiết tất đà dạ (đại nghĩa) - Ta bà ha (Đấng được khai ngộ vì nghe được tiếng pháp loa) - Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ (bậc hiền thủ thánh tôn) - Ta bà ha (thành tựu) - Ma bà rị thắng kiết ra dạ (anh hùng uy đức sanh tính) - Ta bà ha (chinh phục con ma sắc đen ở vai bên trái) - Nam mô hắc ra đát na, đá ra dạ da (quy mệnh tam bảo: Phật, Pháp, Tăng) - Nam mô (quy mệnh) a li giạ (Thánh) - Bà lô kiết đế (Quán) - Thước bàn ra dạ (tự tại) - Ta bà ha (thành tựu) - Án (quy mệnh) tất diện đô (khiến cho tôi được thành tựu) - Mạn đà ra (chân ngôn) - Bạt đà giạ (câu) - Ta bà ha (thành tựu).

III) Đại ý toàn thể bài văn:
Kính cẩn khấu đầu trước Tam Bảo Phật Pháp Tăng. Xin quy y theo đức Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát, quy y mệnh đức Đại Bồ Tát đại từ đại bi, mà cầu xin thành tựu được sự giác ngộ, nhằm cứu tế những kẻ mê muội do mọi sự khủng bố trên thế gian này. Vì vậy, chúng con xin quy y mệnh nơi đức Đại Bồ Tát có lòng đại từ bi. Nhất tâm thệ nguyện truyền bá rộng rãi lòng từ bi của đức Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát, lắng nghe tâm chân ngôn đại uy thần lực (tổng trì pháp môn tâm chân ngôn và Phật nội chứng), vâng theo mệnh của bản tôn là Đại Bi Tâm Đa La Ni này hết lòng xưng tụng công đức Quán Tự Tại Bồ Tát, tất cả mọi hy vọng đều được viên mãn, mà làm sáng tỏ tính chất đồng thể đại bi thanh tịnh viên minh và làm cho tất cả quỷ thần đều không thể đánh thắng được uy lực lớn của Ngài. Với những kẻ có tâm đạo, không bao giờ bị sự vô minh phiền não mê hoặc, không bao giờ bị đắm vào cõi mê, và được dẫn dắt tới thế giới quan minh của đức Đại Bồ Tát. Trí tuệ quang minh được biểu hiện siêu tuyệt nhất thế gian là đức Bồ Tát có công đức vô cùng vĩ đại. Có đứng quy mệnh giống như đức Tự Tại Sư Tử Vương Đại Bồ Tát. Ức niệm nói chung bản thể tâm chân ngôn bồ tát cũng giống như đi ở trên không để mở cuộc đại diễn thuyết tự tại, hoặc là làm công việc tư duy về một sự nghiệp lớn. Cũng như các bậc đế vương, bất kể việc gì, đều được đức Bồ Tát làm một cách tự do tự tại, Được hành động bởi một thân thể thanh tịnh không mảy may dơ bẩn, hoặc để trừ diệt mọi hành vi dơ bẩn của ba cái độc hai là tham, sân, si, cũng như trừ diệt mọi ác ma độc hại ở trên thế gian này. Như vậy sẽ nhanh chóng có mái tóc hoa đẹp đẽ,hoặc một bông hoa sen thanh tịnh, và cầm được bông hoa sen của đức Bồ Tát. Giáo hoá được nghiệp ngu si của ta và chứng ngộ được lòng đại bi ái. Nếu như muốn thấy được con chim cổ xanh, có thể khiến nó hiện hình trước mắt. Khiến sinh lòng hoan hỷ của Quán Tự Tại Bồ Tát.

Muốn đuợc tới cõi Niết Bàn (thành tựu viên mãn) sẽ được thấy cõi Niết Bàn, và cũng được tới tất địa (nơi ngộ đạo) với Du Già (tương ứng hiệp nhập) được tự do tự tại. Trong đ1 cũng có kẻ mặt heo cổ xanh, có kẻ mặt sư tử, còn từ bi thì biểu thị tay cầm hoa sen, để đeo ngọc hoàn mà đánh ma quỷ phiền não. Nghe tiếng pháp loa vi diệu mà được chuyển mê khai ngộ. Tay cầm bông lớn, mắt nhìn về phía tay trái nhắm vào loại ma sắc đen và hết thảy đều quy y chân thực tam bảo.
Nam mô vô thánh Quán Tự Tại Bồ Tát, khiến cho được tới cõi Niết Bàn, để trì tụng lời chân ngôn này ở nơi Niết Bàn u tịnh.

IV) PHẦN TƯỜNG GIẢI BÀI ĐẠI CHÚ

ĐẠI BI CHÚ
(ĐẠI): có nghĩa là tự bản thể nó rất rộng rãi, bao hàm trọn vẹn mọi nơi. Có nhiều, rất thắng diệu, không thể bàn cãi được. (BI): chính là lòng trắc ẩn thấy khác đau khổ, mà lòng từ bi muốn cứu tế, tức là lòng nhân từ lên cao đến cực điểm vậy. (CHỈ QUAN): tứ thuyết giải nghĩa hai chữ này có nghĩa lòng từ bi thấm tận xương tủy, như lòng mẹ thương con. (CHÚ): tiếng Phạn Đà La Ni. Có thể dịch là trì, năng trì, tổng trì, và năng giá (giữ, có thể giữ, tóm giữ, có thể che chở) có thể khiến cho phép lành không bị tan rã và ác pháp không thể nổi dậy. Đúng theo mật ngữ phát bí của thiền định, có sức thần nghiêm không thể lường được, tất cả những ý nghĩa nêu trên đều được gọi là lời chú. (PHẬT ĐỊA LUÂN): theo ngũ thuyết Đà La Ni tăng thêm tuệ nhiệm, có thể tóm giữ được Phật Pháp vô lượng, khiến cho không thể quên mất. (TRÍ ĐỘ LUẬN): theo ngũ thuyết Đà La Ni là luôn luôn giữ gìn lời nói, hoặc ngăn cản được lời nói. Có thể nói giữ được nhiều thứ thiện pháp, khiến cho không tan không mất, cũng như cái đồ đựng lành lặn đựng nước không bị rò rỉ. Có thể ngăn cản được nghĩa là, khi lòng ác, không lành, phát sinh, có khả năng ngăn cản, khiến nó không phát sinh được. Nếu muốn làm tội ác, có thể giữ gìn và tránh được, như thế gọi là Đà La Ni.

THÍCH: Toàn thể bài Đại Bi Chú đều là tiếng Phạn, đó là đại từ bi tâm cũng như bồ đề tâm của Quán Thế Âm Bồ Tát, Ngài muốn phổ độ chúng sinh nên đọc ra lời khẩu quyết trọng yếu này. Tuy nhiên, có một số người chỉ biết đọc, mà số người thực sự hiểu biết thật là hiếm hoi. CHÚ tức là Mật ngữ được phát xuất khi đức Phật Bồ Tát ngồi thiền định. Do đó “Bi Tàng Ký Bản” có nói: lời chú tức là Phật Pháp chưa có ảnh hưởng lớn lao ở đất Hán, có Cấm Chú Pháp ở thế gian, có khả năng trừ tai họa rất thần nghiệm. Khiến cho người đọc Đà La Ni có thể phát huy được khả năng trừ tai họa. Phép chú cũng tương tự, cho nên gọi là Chú. Đại Bi Chú hoàn toàn lấy pháp làm thể nhằm thức tỉnh chúng sinh mau chóng tu đạo, sớm chứng Phật quả. Vì thế nếu luôn luôn chân thành tụng niệm, tất nhiên được cảm ứng đạo giáo, có nhiều lợi ích. Như vậy, nếu có thể tiến thêm bước nữa là hiểu rõ từng câu, từng chữ, đúng theo phương pháp tu trì, tất nhiên việc đi tới cõi giải thoát không khó khăn gì.


1.
NAM MÔ HẮC RA ĐÁT NA DÁ RA DẠ DA:

Câu chú này là chính bản thân đức Quan Thế Âm Bồ Tát đã vận dụng lòng đại từ bi tụng niệm. Vậy khi đọc chớ nên đọc quá to với một tinh thần vội vã.

DỊCH: (Nam mô) có nghĩa là quy y, tôn kính, vâng theo. (Hắc ra đát na) có nghĩa là vi bảo – là việc quí báu – (Đá ra dạ) có nghĩa là 3. (Da) là lễ. Vậy toàn thể ý nghĩa câu này có thể tóm tắt: quy mệnh lễ kính thập phương vô tận tam bảo.

GIẢI: (Nam mô) tứ là quy y, quy y tức là căn nguyên làm tổ, thành Phật. Đó là một điều kiện không thể thiếu được đối với những ai theo học đạo Phật. Vì lẽ đó, tất cả những chữ đứng trên đầu bai chú, đều bao trùm hai chữ NAM MÔ. (Hắc ra đát na) muốn giải thích đạo thể vốn phi không phi sắc, trong đó ẩn tàng những diệu cảnh vô cùng. (Đá ra dạ da) có nghĩa là pháp nhĩ xuất phát từ chỗ tự nhiên. Tự nhiên tức là có thể khế hợp với đạo pháp. Nói một cách khác: muon ngàn đạo pháp cũng là do hai chữ duy tâm mà ra. Cũng nên biết tâm tức là đạo. Chúng ta nếu cứ giữ đúng theo phương pháp mà tu trì, thời rất dễ thành đạo.

GIẢNG: Chỉ có một câu này đủ nói lên niềm hy vọng của đức Bồ Tát mong muốn chúng ta quy y đạo pháp một cách chân chính, nhờ vậy mà thấy rõ được lòng, được tính, hoặc tới được chân ngôn chính đẳng chính giác. Vì thế bốn chữ khai tông minh nghĩa nhằm làm cho diệu pháp thâm diệu vô cùng sáng tỏ và thâm nhập vào chúng ta. Vậy quy y có nghĩa là quy y Tam Bảo: quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Nên nhớ: quy y Phật cần phải vô tư, vô lự, ngưng tụ tinh thần, nhất thiết tin tưởng vào hai túc tôn. Quy y Pháp có nghĩa là phải triệt để tuân theo những nguyên tắc trong kinh điển, không oán trời, không trách người, để thể theo cái lẽ duyên sinh của trời. Quy y Tăng chính là thường xuyên giữ gìn lấy giòng nước thanh tịnh, cũng cố lấy cái tính mệnh như như bất động (Liên quan đến yếu nghĩa của câu quy y Tam Bảo, xin tham khảo thêm cuốn sách nhan đề QUY Y TAM BẢO ĐÍCH CHÂN ĐẾ). Cần phải hiểu rõ cái nguyên lý là từ chỗ CÓ đi vào chỗ KHÔNG. Đó chính là căn nguyên để trở thành Phật. Nếu không hiểu rõ được mọi phép “Cái Thể vốn là không”, thời không thể thành bậc chính giác được. Chúng ta cần lấy lòng cực kỳ thành kính để phát huy cái hoằng nguyện cực kỳ to lớn. Quy y tam bảo nhằm tinh tiến việc tu trì, mới có thể đạt được cõi vi diệu tâm thể bản nhiên (tâm thể đều quy về một gốc). Cái cảnh giới đó có thể gọi là phi không phi sắc. Vì thế những bậc tu đạo, trước hết cần phải biết phá vỡ hết thảy mọi sắc tướng và duy trì lấy cái bản tính bản lai không tịch. Có như vậy mới có thể phóng ra ánh sáng rực rỡ, soi tỏ pháp giới, và trở thành chứng quả của nhà PHẬT. Nói chung, hết thảy mọi giáo điển Tam Tạng, đều do con đường đó xuất phát một cái lý chí cực.

2.
NAM MÔ A LỊ GIA


Nam Mô A Lị Gia đó là bánh xe Như Ý của chính bản thân đức Bồ Tát, đến đây cần phải đặc biệt lưu tâm.

DỊCH: (Nam mô) nghĩa giống như trên. (A Lị) là bậc Thánh hoặc là phương pháp xa lìa điều ác, chẳng lành. (Gia) là lễ, toàn câu có nghĩa: Kinh lễ quy y, cách ly những bực Thánh hung dữ, chẳng lành.

GIẢI: (A lị gia) có nghĩa là tu tâm, đó là đức Như Ý Luân Bồ TÁt hiện rõ diện tướng sắc đen, hàng phục ma quỷ và hộ trì chân ngôn cho những kẻ tu đạo.

GIẢNG: Đức Bồ Tát đã dạy bảo cho người đời câu này, kẻ tu đạo phải lấy câu chân ngôn là tu tâm làm gốc. Vì lẽ muôn ngàn diệu pháp trong trời đất, đều do tâm mà phát khởi. Vì thế những người tu đạo, cần nhất phải soi rõ lòng mình để thấy tính mình. Có vậy mới có thể chứng nhập vào cõi BỒ ĐỀ. MINH TÂM tức là do chỗ Hữu niệm tiến tới chỗ Vô niệm, cởi bỏ hết thảy, dứt bỏ trăm ngàn đều quấy. Muốn như vậy, không được cho lòng buông thả. Nếu để cho lòng buông thả một chút, nó sẽ tuỳ theo tình và cảnh mà chạy theo và vĩnh viễn không ngày nào vươn lên được. Vì thế, thường có câu: Lòng không sáng tỏ thời không thấy được tính. Những người tu đạo, chủ yếu là rủa sạch mọi thói quen cũ để khôi phục lại bản tính cố hữu. Chỉ có hình thức duy nhất đó mới có thể tiến tới bậc chân trí. Tuy nhiên, cũng cần phải biết rõ: Có được công phu hàng phục (thắng được mọi nết xấu), tất nhiên không phải trong một ngày mà đạt được. Trái lại, phải được nuôi dưỡng từ từ, theo luyện từ từ và lâu dài, khiến cho bản tính được thuần hóa. Nếu không phát sinh một ý niệm xấu, tất nhiên cõi lòng sẽ sáng tỏ và trong suốt, như như bất động, từ đó có thể tiến vào diệu cảnh của Niết Bàn. Được công phu đó không phải do kết quả một ngày, và cũng không thể do lòng tham luyến dục niệm mà tỉnh ngộ được. Nói chung, tâm tính của chúng ta đều có điểm giống nhau, không phân biệt được bậc Thánh hay kẻ phàm. Do đó, điểm chủ yếu là phát tâm tu hành, sau này sẽ đạt được mục đích. Như kinh đã nói ở trên: Tâm, Phật, và chúng sinh, cả ba đều không có sự sai biệt.

Đức Như Ý Luân Bồ Tát hiện ra diện tướng sắc đen để hàng phục ma quỷ, câu này có nghĩa là mọi việc đều bởi Duy Tâm mà tạo ra. Ta có thể hiểu rộng hơn về câu này: tướng bởi lòng sinh, và tướng cũng theo lòng mà dứt. Không phải gió động, phướng động, mà lòng của bậc nhân giả động.

3.

BÀ LÔ KIẾT ĐẾ, THƯỚC BÁT RA DA

Bà lô kiết đế, thước bát ra da, đó chính là bản thân của đức Trì Bát Quan Thế Âm. Nếu muốn lấy được ngọc Xá Lợi, xin đọc bài này và suy gẫm. Đức Bồ Tát cầm bát.

DỊCH: (Bà lô kiết đế) bao gồm ba ý nghĩa là Quan, quang, Quan sát. (Thước bát ra) có nghĩa là tự tại Thế Âm. (Da) là lễ. Toàn câu có nghĩa: Kính lễ Tự Tại Quán Thế Âm.

GIẢNG: Câu này nói về sự khỏê não của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát vì lòng thương người. Tất cả mọi sự khổ não của con người đều do tà pháp dẫn đến chỗ đánh mất bản tính, chìm đắm trong cảnh sinh tử luân hồi. Vì lẽ đó Ngài đã tỏ lòng từ bi, để cứu độ hết thảy chúng sinh cùng tu dưỡng chân ngôn của nhà Phật. Quán Tự Tại Bồ Tát tức là Lục Căn Thanh Tịnh Bồ Tát. Sáu căn đều giữ cho thanh tịnh là MẮT, TAI, MŨI, LƯỠI, THÂN và Ý. Vì thế tất cả những người thực tập điều cần phải học những điều đó, khiến cho tâm địa được sáng tỏ, tính tình thuần khiết, sau đó mới có thể tiến tới tu đạo. Điều được gọi là ngũ uẩn giai không, có thể ở được mọi khổ ách. Điều này cũng có ý nghĩa như trên. Thật vậy, tất cả những sự vinh hoa phú quý, danh lợi ái ân, đều biến mất chỉ trong nháy mắt. Nói về sỡ hữu, ta thường thấy đó là sắc, thanh, hương, vị (màu sắc, âm thanh, mùi thơm và mùi vị). Những thứ kể trên đều giống như mộng như ảo, như bọt trên nước, như bóng trong gương, như trăng dưới nước, đều không thể tồn tại lâu dài. Những kẻ tu đạo, phải làm cho tâm không, thân không, và đóng bít lục môn, để tiến hành việc tu đạo, và không bị ngoại cảnh chi phối, mới có thể thành công. Nếu không làm như vậy, không những không thoát ly được cõi sắc tướng, mà còn làm cho tâm thần mỏi mệt, khí lực hao mòn, bệnh tật phát sinh. Kết quả là không bao giờ thành đạo. Qua đó, ta thấy hai chữ sắc tướng có những hậu quả vô cùng tai hại. Đó là điều đáng kể cho chúng ta đặc biệt lưu tâm. Tuy nhiên, xét kỹ diệu thể của Không Tính (tính cách hư không), đều không phải là một mực ngoan không, mà chính là chân không bất không, bất không nhi không (xin diễn rộng ý câu này: không tính, không phải là ngồi mà xem xét sự hư không. Trái lại chân không tức là không phải là không. Vậy chân không bao hàm ý nghĩa hành động, hãy tích tực không thụ động, nhi không tức là mục đích vẫn nhằm vào chữ không). Khi ta đã thể hội được điều đó, là ta đã tiến sâu được vào cõi diệu đế vô thượng. Không thế, tất sẽ dễ đi vào con đường bàng môn tà đạo, kết cục, không bao giờ có cơ may thành Phật.


4.

BỒ ĐỀ TÁT ĐỎA BÀ DA

Bồ đề tát đỏa bà da, đó chính là Đức Bất Không La Sách Bồ Tát, ấp Đại Binh.

DỊCH: (Bồ đề) là giác – (Tát đỏa) là hữu tình – (Bà da) là lễ. Toàn câu có nghĩa là: kính lễ giác hữu tình.

GIẢNG: (Bồ đề) tức là một loại chân ngôn của đức Bồ Tát. (Tát đóa ba da) có nghĩa là nếu quyết tâm lập chí theo đạo, trở về nguồn gốc và làm sáng tỏ điều lành và trở về lúc ban sơ. Có vậy mới có thể tiến tới sự đại giải thoát.

GIẢNG: Câu này bao hàm ý nghĩa là đức Bồ Tát muốn động hoá thân thể chúng sinh và laà cho chúng được sớm tỉnh ngộ để tu trì chân ngôn của đại đạo. Yếu quyết của nó chính là hồi quang phản chiếu (ánh sáng quay trở lại phản chiếu), xét soi bản thân. Coi toàn thân hết thảy đều là hư ảo vô thực. Hết thảy khắp nơi trong người đều là hư vọng (hư không vọng niệm), thời làm sao tìm thấy ngoại giới là chân thực. Thử nghĩ lại coi, của cải có thể giữ mãi được chăng? Thê thiếp con cái có thể mãi mãi thay thế chăng? Xét rõi được như vậy, thời tất cả muôn ngàn ý nghĩa đều thuần hoà, và bản tính sẽ hiện lên rõ ràng. Lý do mà Bồ Đề được xưng là BỒ TÁT chính là ở nơi có thể làm nảy nở tâm đạo tu hành. Khi đã thủ đắc Bồ Đề Tâm, thời bất cứ nơi nào cũng được giải thoát, lo gì không trừ diệt được sự luân hồi khổ não. Tiếc thay, người đời mắc nợ trần gian quá sâu, không chịu giác ngộ chỉ lăng xăng đứng ở bên ngoài lo lắng, không còn cách nào để đi sâu vào con đường chính pháp, và vọng niệm cứ mãi tồn tại, không biết tới ngày nào mới được giải thoát. Vậy cần nhất là phát lời thề nguyện, độ mình độ người, kiên định ý chí lâu bền không bao giờ trễ nãi, đó chính là chân tâm của BỒ ĐỀ. Thế nào là chủng tử? Chủng tử luôn luôn tồn tại với đạo và lâu dài không bị mai một. Nếu lập chí không bền, thời đặt chân tới đất là đất lở, hết thảy đều đổ nát. Vậy trước khi lập chí, cần phải giữ kỹ tâm thân, khiến cho mảy may không bị rối loạn, có vậy mới hy vọng đạt được mục đích. Cần lưu ý, không nên để cho thị hiếu bên ngoài làm vẫn đục, đó chính là những thị hiếu về ái ân, danh lợi,…tất cả những cái đó không nên tham luyến. Nếu có thể giữ gìn được mọi sự ràng buộc, ánh sáng sẽ hiện rõ trước mắt, trở về tính bản thiện, như vậy sẽ tỉnh ngộ và tiến tới cảnh giới Niết Bàn.



5.

MA HA TÁT ĐỎA BÀ DA

Ma ha tát đỏa bà da có nghĩa là một đấng Bồ Tát, bản thân tự tụng chú.

DỊCH: (Ma ha) là lớn, nhiều, thắng. (Tát đỏa) là dũng mãnh, hữu tình. (Bà da) là lễ. Trọn câu có nghĩa: kính lễ đại dũng mãnh, tức được giải thoát.

GIẢI: (Ma ha) ở nơi đây có nghĩa là rộng rãi không có biên giới. (Tót đỏa bà da) là hết thảy chúng sinh trên thế giới, nếu có thể giác ngộ tu trì, đều có thể được giải thoát lớn.

GIẢNG: Đức Đại Bi Bồ Tát chỉ sợ chúng sinh chẳng chịu trở về gốc để tu haàh, mà cứ coi sắc thân là chân thân, bị lục căn chi phối. Cũng vì bị thất tình che kín, để đến nỗi làm mất cả bản chân, mắc vào kiếp sinh tử luân hồi. Vì sợ như vậy, nên đức Bồ Tát mới nói ra lời chân ngôn này. (Ma ha) hai chữ này có ý chỉ pháp lực thật cao siêu vô cùng vô tận không thể bàn cãi được. Do đó, có thể nói: có thể sánh ngang với ánh sáng mặt trăng mặt trời, sự bao la của vũ trụ cũng khó sánh kịp. Chân ngôn có khả năng nuôi dưỡng vạn vật lâu dài mà không thấy hình bóng, quay vòng khắp nơi mà không thấy dấu vết, bản thể. Tác dụng của chân ngôn quả thật lớn lao, nhưng xét về thể, thời lại hết sức nhỏ bé. Về điểm này, trừ phi được một vị minh sư chân truyền, thời chúng ta khó có thể hiểu rõ tường tận. Tiếc thay, những kẻ hữu tình, biết rõ điều này rất ít, như vậy thời làm sao có thể phóng khí vạn duyên vào một tấm lòng, mà quy y nhà Phật. Ngoài ra, nếu dốc chí thành tâm cầu xin, mà giác ngộ được những sai lầm trong quá khứ. Khi làm, thời nên làm những điều âm đức, chứa chất sự mạnh mẽ, hùng khí, bền chí giữ gìn vô thượng đạo. Như vậy, bất luận gặp sự tình khó khăn đến đâu, đều có thể làm vui mà quên mệt, suốt đời thực hành, đến chết không ngưng. Có vậy mới thoát vòng bể khổ, an hưởng nơi cực lạc lâu dài.

6.

MA HA CA LÔ NI CA DA

Ma ha ca lô ni ca da, đó chính là bản thân đức Bồ Tát Mã Minh, tay đang cầm bạt chiết la.

DỊCH: (Ca lô) nghĩa là bi thương. (Ni ca) là tâm. (Da) là lễ. Trọn câu có nghĩa là: đức Bồ Tát tự mình giác ngộ, tự mình cứu độ, giác ngộ người và tế độ người.

GIẢI: (Ca lô ni ca da) có ý nói sắc tướng đều là không, thời sẽ hết khổ não, và được sang bờ bên kia.

GIẢNG: Câu này bao hàm ý nghĩa đức Bồ Tát khuyên người tu đạo, trước hết cần coi nhẹ thân tâm và cách ly hết mọi ảo cảnh. Thực hiện câu chân ngọn là sống một cách hồn nhiên tự tại, là vô nhân tướng, vô ngã tướng (không phân biệt giữa người và ta). Nhờ đó ta có thể nhìn thấy được chân tính, thoát ly được sự thống khổ. Muốn biết được Phật Pháp quảng đại vô biên, điều đó còn tuỳ thuộc vào người tu trì. Vì thế, chỉ cần kẻ tu hành có hoằng tâm (bền lòng) là có thể đạt tới nguồn gốc của đại đạo. Nếu như đạo tâm không kiên định, nửa đường bỏ dở, hoặc việc tu hành không được rèn luyện đúng mức, như thế không thể nào vượt được người và trời, thoát khỏi cảnh khổ não. Vì lẽ đó, đức Bồ Tát hy vọng tất cả những kẻ hữu tình ở trên cõi đất này, hãy mau chóng học đạo, rộng chứa âm đức. Đối ngoại thời có thể lợi nhân, lợi vật, đối nội thời có thể làm trong sạch tâm hồn và tiết chế lòng ham muốn, cứ như vậy bất kể ngày đêm, cứ mạnh dạn tiến bước. Cứ tiếp tục lâu dài, rồi tự nhiên có thể siêu thăng pháp giới. Những điểm chủ yếu trong việc tu đạo, trước hết là phải loại trừ hết mọi phiền não, khổ công tu luyện loại trừ sắc tướng, và chịu đựng khắc khổ, không sợ gian nan, trước sau như một, có trước có sau. Một ngày nào đi đến thành công, có thể vĩnh viễn sang bờ bên kia. Hết thảy mọi thứ sắc không cũng như mọi khổ não sẽ được bình ổn, vậy đạo lý tu hành là như vậy.

7.

ÚM (ÁN)

Úm nghĩa là mọi quỷ thần chấp tay nghe từng lời chú.

DỊCH: (Úm) chính là bản mẫu (mẹ gốc) của chân ngôn, ý chính là đã có bản mẫu của chân ngôn, là có thể đến hết mọi loại pháp môn. Như chữ và câu, quan trí, hành nguyện, giao lý nhân quả.

GIẢI: (Úm) có thể dịch là quy mệnh, gồm hết thảy bản mẫu của chân ngôn, và nguồn gốc của kiếp nhân sinh.

GIẢNG: Đức Bồ Tát mở lòng từ bi theo lẽ huyền diệu của chân ngôn vô cực, đánh thức bản tính nguyên lai của con người khiến cho thâm nhập pháp môn có một không hai. Nói chung, những lời chú của Mật Tông, phần lớn đều có chữ này. Chữ này có nhiều ý nghĩa như: quy mệnh, cúng dường, kinh giác, nhiếp phục, pháp thân, báo thân, và ứng hóa thân. Nếu người đời có thể tu trì đạo pháp huyền diệu này, thời không những tất cả mọi đấng quỷ thần đều chấp tay hộ vệ, mà còn có thể lánh được nhiều kiếp, chứng được đạo quả. Điều cốt yếu đối với người tu đạo, trong lòng cần giữ được đoan chính, không để phương hải đến đạo đức. Bên ngoài cần làm sao cho công đức được trọn vẹn, hoằng dương đạo pháp làm lợi cho sinh linh. Phải làm như vậy mới có kết quả.


8.

TÁT BÀN RA PHẠT DUỆ

Tát bàn ra phạt duệ tức là bản thân của 4 vị đại vương.

DỊCH: (Tát bàn ra) có nghĩa là Tự Tại. Phật Duệ có nghĩa là Thánh Tôn. Trọn câu có nghĩa là Tự Tại Thánh Tôn.

GIẢI: (Tát bàn ra phạt duệ) có nghĩa là thân tâm thanh tịnh, mọi loài ma quỷ không thể xâm phạm. Muốn cho được thân tâm thanh tịnh, thời trước hết phải chính tâm, tu thân.

GIẢNG: Câu này chính là lời của đức Bồ Tát dạy người ta tu đạo, và đó là con đường rất dễ tiến tới đạo. Nếu có thể tu thân, thời mọi sự việc rất dễ tiến tới đạo. Nếu có thể tu thân, thời mọi sự việc vô ích đều không giám làm. Nếu có thể chính tâm, thời tất cả mọi tưởng niệm trái lẽ đều không cho phát khởi. Cho nên tất cả những kẻ tu hành, trước hết phải loại trừ tất cả mọi dục niệm nằm trong thân tâm. Có vậy, lòng mình mới sáng tỏ. Tự nhiên, tất cả những thứ ma quỷ như tửu, sắc, tài, khí, không thể tấn công và chúng sẽ tự rút lui. Ngoài ra, còn được bốn vị Đại Thiên Vương bảo hộ. Đức Bồ Tát có nói: người tu trì đạo pháp huyền diệu, thời mọi nơi, mọi chốn, đều được chư Phật mười phương hộ trì, tiếp dẫn, và xuất hiện đại uy đức tướng, khiến cho hết thảy mọi loài ma quỷ cuốn gió chạy dài. Nếu có thể bền lòng trì tụng chân ngôn, thời hết thảy mọi loài ác sát nghe thấy tiếng đọc chân ngôn đều phải xa lánh. Đước như vậy, các thứ ngoại tà đều không giám xâm phạm, và tâm thân tự nhiên được thanh tịnh. Nếu được hợp nhất với thể, thời chẳng lý gì mà lại không được thành đạo quả.


9.

SỐ ĐÁT NA ĐÁT TẢ

Số đát na đát tả tức là tên của bốn vị Thiên Vương bộ lạc quỷ thần.

DỊCH: (Số đát na) là chính giáo thắng diệu, hoặc là bực cao thượng thắng sinh, diệu xứ thăng tiến, nơi đất tối thượng. (Đát na) là tiếng nói tiếng cười vui vẻ, dạy bảo chu triệu. Trọn câu là Thông minh thánh hiền gia hộ.

GIẢI: (số đát na đát tả) có nghĩa là tu đạo phải lấy lòng thành làm gốc, lấy sự tinh tiến làm công cụ, và đạt được sự chí thành. Chủ yếu khuyên chúng ta làm người cũng như làm việc, đều phải cẩn thận kiểm điểm, làm cho viên mãn không bị trở ngại, làm theo điều mà nhà nho thường nói: Vô ý, vô tát, vô cố, vô ngã (không có chủ ý, không bắt buộc phải thế, không cố chấp và không chủ quan).

GIẢNG: Câu này chính là lời khuyên của đức Bồ Tát khuyên mọi người nên thực lòng thực ý hướng về đạo pháp, cố sức trừ khử mọi thói xấu. Như vậy có nghĩa là thay đổi tính tình, biến hoá khí chất, không lấn lướt, không làm hại, không ham muốn, không quên lãng, có vậy mới khế hợp được với đạo. Cứ thực hành một cách lâu dài, tất có kết quả. Một ngày nào đó, thành công tất nhiên là thành chính quả. Nếu tu đạo mà không giữ được lòng thành thời coi như bất minh, vì lẽ trong lòng còn có nhiều điều hư vu dối trá. Bước thứ nhất tiến tới chữ thành, thời sự chân thực không bị dối trá. Vì thế lòng thành có thể cảm thông được với trời đất, cảm động đến quỷ thần, cảm ứng với nhân vật. Như kinh đã nói: thành tâm tu đạo, sẽ được sự bảo hộ của bốn vị đại vương cũng như sự bảo hộ của hết thảy các vị thiên thần, đó chính là đạo lý tu hành vậy. Vì lẽ lòng thành, thời không có vọng động, cõi lòng quy về một mối, lòng thành tự nhiên sáng tỏ, sáng tỏ sẽ thông suốt, thông suốt sẽ có thể biến, và biến sẽ hóa được cái đạo chí thành không thể lấy gì mà thí dụ được. Có chí mà học điều không phải đạo, dù thành tâm dụng ý mà học cũng uổng công phu.

10.

NAM MÔ TẤT KIẾT LẬT ĐỎA Y MÔNG A LỊ GIA

Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a lị gia, đó chính là bản thân của đức Long Thụ Bồ Tát, cần phải hết lòng đọc kỹ, cho xa lìa tính cấp của đức Đại Bồ Tát.

DỊCH: (Nam mô) có nghĩa là quy mệnh. (Tất kiết lật) nghĩa là lễ bái. (Đỏa y mông) nghĩa là ta chính không phải là ta. (A lị gia) nghĩa là bực Thánh. Trọn câu có nghĩa là: quy y bực Chân Ngã Thánh.

GIẢI: (Tất kiết lật đỏa y mông) có nghĩa là người ta tu đạo, tự nhiên sẽ được đức Bồ Tát che chở. (A lị gia) có nghĩa là tu đạo không thể nóng nảy để mong sớm đạt được kết quả.

GIẢNG: Đức Bồ Tát khuyên người ta tu đạo, trước hết cần có ý chí siêu tuyệt thoát tục. Kế đó là giữ lấy lòng tế vật độ nhân. Nếu làm được như vậy, thời không cần phải trời giúp mà sẽ được trời bảo hộ. Vì thế những kẻ tu đạo, một mặt phải giữ sao cho lòng bền vững, nhất tâm nhất đức, không để nóng tính nóng lòng. Mặt khác, phải để lòng trong sáng tham khảo, tìm hiểu kinh điển. Cũng cần bậc minh sư mở mang đưa đường chỉ nẻo, và tự hành đúng theo phương pháp. Làm được như vậy, tự nhiên sẽ có đức Kim Cương hộ pháp về đạo, tuyệt đối không làm trở ngại mọi sự động tĩnh, được ra vào thong thả tự do, mọi việc cầu xin sẽ hoàn toàn được như nguyện. Vì thế, Tam Tổ có nói: việc đạt tới đạo không phải là điều khó, nhưng khó ở việc chọn lựa (sao cho đúng). Ước mong đồng đạo phát lời thề nguyện, dù gặp trăm sự ma chiết cũng không rối loạn, ngàn thứ ma quỷ ám ảnh cũng không biến cải. Được như vậy, dễ thành tựu Phật đạo.

11.

BÀ LÔ KIẾT ĐẾ THẤT PHẬT RA LĂNG ĐÀ BÀ

Bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà chín là đức Viên Mãn Báo Thân Lư Xá Na Phật.

DỊCH: (Bà lô kiết đế) nghĩa là Quán. (thất Phật ra) có nghĩa là thế Âm. (Lăng đà bà) có nghĩa là hải đảo, nơi đại từ đại bi, cung từ ái. Sách Tây Vực Ký có nói: ở núi Thù Lạc Già, nơi biển Nam Hải, có Thạch Thiên Cung, nơi đó chính là nhà cửa của Quán Tự Tại Bồ Tát. Từ chữ Nam Mô cho đến câu này có nghĩa là: chúc nguyện gia hộ, hiển hoá núi báu công đức, trang nghiêm thắng cảnh.

GIẢI: (Bà lô kiết đế) có nghĩa là tâm với đạo cùng hoà hợp, có thể được ánh sáng đại viên mãn. (Thất Phật ra) có nghĩa là ra vào hay đi dạo chơi, đều được tự tại theo ý muốn. (Lăng đà bà) có nghĩa là khi đã được thành đạo, thời tất cả thế giới mười phương nghe thấy âm thanh là một lòng tín ngưỡng.

GIẢNG: Tất cả những điều nói trên đều là lời chân ngôn của đức Bồ Tát khuyên người ta nên tu đạo. Cần phải ngưng tụ tinh thần và một lòng chuyên nhất dũng cảm tiến lên. Tham thiền tĩnh tọa chính là công phu rèn luyện tâm thân cho được thống nhất. Vì thế khi tu luyện, cần sao đầu thẳng mình ngay, tâm định khí bình, trong lòng không có mảy may rung động. Chủ yếu là lòng thẳng thắn, không cần mượn hình thức bên ngoài. Làm như vậy tất nhiên sẽ được ánh sáng viên mãn. Vì lòng không có điều hổ thẹn, ý không có gì dối trá, luôn luôn được quảng đại khoan hòa, bình ổn, nhờ vậy, thân được thư thái, đứng đi nằm ngồi, các loại tà ma không dám xâm phạm, hết thảy mọi sự đều được tự tại theo ý muốn.

12.

NAM MÔ NA RA CẨN TRÌ

Nam mô na ra cẩn trì, đó chính là bản thân đức Thanh Tịnh Thân Tỳ Lô Giá Na Phật, cần phải hết sức dụng tâm.

DỊCH: (Nam mô) là quy mệnh. (Na ra) là hiền. (Cẩn trì) là yêu. Trọn câu có nghĩa là: quy y lòng từ bi hiển ái, lòng cung kính, lòng vô thượng bồ đề.

GIẢI: (Na ra cẩn trì) có nghĩa là yêu quý che chở người hiền, người thiện.

GIẢNG: Câu này là do lòng từ bi của đức Bồ Đề, khuyên mọi người trên thế gian nên quy y Tam Bảo, và cần trước hết là thực hành chân ngôn nhân đạo. Người tu đạo trước hết phải lấy chính bản thân mình làm mẫu lực, là người tiêu biểu những đức tính tốt, để dìu dắt kẻ hậu học. Có một số người tu đạo chỉ chăm lo siêu thoát bản thân, đó thuộc về lối tu của những người theo giáo phái Tiểu Thừa. Chúng ta nên mở rộng cõi lòng, học tập đạo hạnh Đại Thừa của đức Bồ Tát. Lấy việc cứu đời độ người làm nhiệm vụ của mình. Nên tâm niệm câu nói: Địa ngục còn có người, thời ta quyết chưa thành Phật, nhằm siêu độ toàn thể chúng sinh. Nếu tất cả mọi người đều phát được lời hoằng nguyện như vậy, thời thế giới này sẽ biến thành một thế giới thanh tịnh lưu ly (trong sáng như ngọc lưu ly). Những ai được mọi người tôn quý, chính là người có tư tưởng nhân nghĩa và lòng trung thứ. Chúng ta là những người học tập đạo Phật, thời lại càng phải phát động lòng từ bi, với lòng Bồ Đề để cứu thế độ nhân. Vì thế người ta thường nói: một lòng yêu mến giữ gìn điều lành, rộng đường dìu dắt, ngõ hầu không phụ khổ tâm của đức Bồ Tát hết lòng giảng thuyết lòng đại từ bi Đà La Ni. Đó chính là ý nghĩa câu gánh nặng đường xa.

13.

HÊ RỊ MA HA BÀN ĐÁ SA MẾ

Hê rị ma ha bàn đá sa mế, đó chính là Dương Minh Đương Đầu Thần Vương và mọi thiên ma làm quyến thuộc.

DỊCH: (Hê rị) là tâm, chủ yếu nói tâm không bị ô nhiễm. (Maha bàn đá sa đế) nghĩa là đại quang minh, trường chiếu minh, không quan tâm.

GIẢI: (Hê rị ma) là nó về lòng từ bi quảng đại, có thể cứu khổ và ban phát sự an vui. (Bàn đá sa mế) nói những kẻ công đức thường được cát thần che chở, muôn loài ma quỷ không thể xâm phạm.

GIẢNG: Đức Bồ Đề thấy người đời thường coi năng đường danh lợi, ham mê phú quý, đó là chuốc lấy sự khổ não. Vì thế Ngài nói ra lời chân ngôn này. Vì lẽ đó những người tu đạo trước hết phải lạnh nhạt với những dục vọng kể trên và phải một lòng một ý ngộ đạo, mới hy vọng thành công. Nếu lòng tục phai nhạt, thời lòng đạo thâm nồng. Lòng ngươi hư không thời lòng đạo kiên định. Như vậy làm cho tâm được không, thân được không, và sinh cơ sẽ bộc phát đầy cõi lòng, tất nhiên sẽ thoát khỏi khổ ải, bới nơi an lạc. Chúng sinh cũng giống như bản thân ta, vạn vật cũng là một thể. Lòng ta thanh tịnh, thời ma quỷ bên ngoài không thể quấy phá. Chính mình đạt được thành quả, thời mọi sự khổ ải đều được giải cứu. Vì thế Kinh có nói: dựa vào lòng đại từ đại bi mà tu muôn nết, phúc báo tự nhiên sẽ tới thân mình, ma quỷ đều xa lánh. Tu đạo không hoàn toàn dựa vào điều hữu vi hay vô vi, cũng không được dựa vào tam thế, tứ là quá khứ, vị lại hay hiện tại. Nếu biết rằng mọi duyên kiếp đều là không, là hư vọng điên đạo. Cái gọi là nhân duyên thực ra không phải là nhân duyên. Vì thế kinh Kim Cương có giải thích: đến Pháp còn có thể bỏ được, huống chi phi Pháp. Cảnh quan cao bổng hậu trên thế gian, chẳng qua chỉ là sự vinh hiển một lúc một đời, có sá gì để tham luyến, ước mơ, ngưỡng mộ?

14.

TÁT BÀ A THA ĐẬU DU BẰNG

Tát bà a tha đậu du bằng, đó chính là đức Cam Lộ Bồ Tát, cũng là đức Quan Thế Âm Bồ Tát, cùng các bộ lạc được coi là quyến thuộc.

DỊCH: (Tát bà) có nghĩa là hết thảy, đó là lời nói chỉ về sự bình đẳng. (A tha đậu) là giàu có an vui không bị nghèo khó, mọi điều đều được như ý không bị tiêu diệt, đó cũng có nghĩa là lòng vô vi. (Du bằng) là nghiêm túc, thanh tịnh, không có điều lo, bao hàm ý nghĩa không có lòng kiến thủ.

GIẢI: (Tát) có ý nghĩa là xem thấy. (Bà) có nghĩa là bình đẳng. (A) có nghãi là hết thảy mọi Pháp đều thanh tịnh. (Tha đậu du bằng) có nghĩa đạo pháp vô biên, rất lợi ích cho lục đạo tứ sinh, và tất cả mọi đều được thấm nhuần nước Cam Lồ.

GIẢNG: Câu này phát xuất từ lòng đại từ đại bi của đức Bồ Tát, chính ngôn là chân ngôn khuyên mọi người nên bền lòng tu đạo. Tất cả chúng sinh đều có thể tu đạo và cùng chứng được Phật quả. Đặc biệt không có sự phân biệt sang hèn giàu nghèo, chỉ cần phát tâm tu đạo, kiên định một lòng không hai, độ cho bản thân và người khác. Tu cả trong lẫn ngoài, như vậy sẽ được chính quả của đức Kim Cương. Điều được gọi là chư pháp bình đẳng, tức là ở gần bực thánh không làm tăng tiến, mà gần kẻ phàm không bị suy giảm. Chủ yếu là ở nơi có chí hay không có chí. Vì thế hết thảy người phàm tục hay thánh nhân chẳng hạn như Trời, dục A Tu La, địa ngục, quỷ đói, cho đến mọi loài chúng sinh, khi nghe được đạo này thời từng giờ từng khắc chẳng quên, tất cả lời ăn tiếng nói đều tỉnh táo không mê muội, tất cả mọi ý nghĩ đều tốt lành, kế hợp với đạo, đến chết chẳng rời. Có như vậy, mới đạt tới thể Kim Cương một cách lâu dài và không bao giờ bị huỷ hoại. Nếu hướng về trời hay người, thời được trời và người đều tôn trọng. Nếu hướng về Tu La, thời mọi ác tâm đều bị điều phục. Nếu hướng về phía địa ngục, địa ngục sẽ tự nhiên bị tiêu diệt. Nếu hướng về phía quỷ đói, quỷ đói sẽ được no nê. Nếu hướng về phía súc sinh, mọi chúng sinh đều được đại trí tuệ. Nếu hướng về phía côn trùng xuẩn động hàm linh (chứa tính thiêng liêng) tất cả những loài này đều được giải thoát. Do đó ta thấy rõ đạo pháp thật là bao la không bờ bến, và tất nhiên không còn gì để bàn cãi.

15.

A THÊ DỰNG

A thê dựng, đó chính là đức Phi Bằng Dạ Xoa Thiên Vương tuần lịch bốn phương để soi xét mọi điều thị phi.

DỊCH: (A thê dựng) là Pháp có một không hai, và Giáo có một không hai, chính là lòng ti bệnh và vô tạp tâm (từ chữ Nam ô đến câu thứ tư này, chính là tâm pháp bàn nhược của đức Bồ Tát). Đó chính là mười loại tâm trong kinh Đại Bi và Đà La Ni tướng mạo cố, nên kính cẩn tu hành.

GIẢNG: (A thệ dựng) câu này chính là chân ngôn của đấng Bồ Tát thương xót chúng sinh không biết tu đạo, cam lòng sa ngã ở nơi bể khổ. Vì sợ chúng sinh biến nhác, bất ngờ có các đức Khiển Phái Phi Thiên, Dạ Xoa Vương, ngày đêm đi tuần lịch bốn phương không ngừng và tỏ oai linh để cảnh giới chúng sinh và hẹn cho chúng sinh phải sớm lánh dữ tìm lành, bỏ điều hung ác và giữ điều lương thiện. Nói chung tất cả những người quyết chí tu đạo, phải lấy đó mà kinh sợ, làm điều răng, sớm phát lời đại nguyện, bỏ tà quy chính, bỏ điều dối trá, giữ niềm thành thực, không được để cho ngoại cảnh chi phối mà sinh ra những tình cảm không chính đáng. Đối với những người chưa được nghe Pháp mà xua đuổi được mọi ác niệm, thành tâm tu niệm bản chú này, tự nhiên sẽ được Trời Phật phù hộ. Còn những người tạo nên ác nghiệp, nếu biết hối cải kịp thời, đức Bồ Tát cũng sẽ sẵn lòng dẫn độ, và bỏ qua mọi lỗi lầm trong quá khứ. Tóm lại, chủ yếu trong việc tu đạo, không ngoài việc sửa lỗi, tìm lành, và làm cho mọi ý niệm được thanh tịnh. Đó là đường tắt tiến tới việc tu đạo.

16.

TÁT BÀ TÁT ĐÁ NA MA BÀ TÁT ĐÁ NA MA BA DÀ

Tát bà tát đá na ma bà tát đá na ma ba dà, đó chính là đức Ba Gia Đế Thần Vương hình dáng đen lớn, mặt áo da báo, tay cầm dao sắt.

DỊCH: (Tát bà tát đá) có nghĩa là hết thảy Đại Thân Tâm Đức Bồ Tát. (Na ma bà tát đá) tức là Đồng Trinh Khai Sĩ, đó chính là biệt hiệu của Pháp Vương Tư. (Na ma) có nghĩa là không có loại này loại kia (phân biệt đẳng cấp). (Bà dà) có nghĩa là đức Thế Tôn, có ý chỉ chư Phật mười phương.
GIẢI: (Tát bà tát đá) có nghĩa là Phật Pháp vô biên, tất cả mọi chúng sinh trong thế giới đều có thể thành Phật. (Na ma bà tát đá) có nghĩa là Phật Pháp hết sức bình đẳng, tuyệt đối không có sự phân biệt cao thấp. (Na ma ba dà) có nghĩa là Phật Pháp hết sức rộng lớn, tất cả những người thật lòng tu đạo, tất cả mọi tai nạn có thể tiêu trừ trong cõi vô hình.

GIẢNG: Câu này nói về chủ ý của đức Bồ Tát hoàn toàn không có sự phân biệt giữa thánh hiền, trí tuệ cũng như các loài điểu thú đều có thể nhờ chân ngôn mà giải thoát. Điều được gọi là xuẩn động hàm linh, tất cả đều có Phật tính, đó là ý nghĩa chính. Đức Phật cũng là từ một người bình thường mà tu thành Phật. Vậy thì không thể là quá khứ Phật, hiện tại Phật, vị lai Phật, tức là tam thế chư Phật đều như nhau cả, không Phật nào ở vòng ngoại lệ. Vì thế tất cả chúng sinh trong thế giới, nếu mà thật lòng tu đạo, đức Bồ Tát sẽ đại phát lòng từ bi, hiện ra ngàn mắt ngàn tay, coi tất cả với tấm lòng nhân mà ra ơn cứu độ. Vì đức Bồ Tát có ngàn mắt ngàn tay để cầm pháp khí hàng phục ma quỷ, và kẻ tu hành được yên lòng tu đạo, khỏi bị phiền nhiễu.

17.

MA PHẠT ĐẠT ĐẬU

Ma phạt đạt đậu, đó chính là bản thân Quân Trá Ly Bồ Tát, cầm bánh xe sắt và dây, có ba mắt.

DỊCH: (Ma phạt đạt đậu) nghãi là thiên thân thế hữu (thân thích của trời, bạn của đời) từ chữ “Tát bà tát đa” đến chữ “Ma phạt đạt đậu”, hai câu này có nghĩa là cầu xin đức Phật Bồ Tát khiến Thiên Thần và thế hữu của ta đều được thành tựu. Từ đầu bài chú đến câu này là ngưng, đều có ý nghĩa là quy cầu thánh hiền gia hộ.

GIẢNG: Câu này chính là chân ngôn của đức Bồ Tát tiếp theo đoạn văn trên, chủ yếu là khuyên kẻ tu đạo nên ném bỏ hết mọi thứ: không bị vật chất ô nhiễm, không bị sắc tướng ràng buộc, không quan tâm đến mọi thứ, bỏ hết mọi chính kiến, danh lợi, tình dục hư vọng. Đạo lấy chân thành là quý, vì thế trong ngũ giới, cần đặc biệt giới vọng ngữ. Chúng ta cần luôn tảo trừ vọng niệm, và trừ đến tận gốc mọi thứ tham, sân, si, lấy thanh gươm trí tuệ mà chặt đứt mọi ma quỷ phiền não. Khiến cho tâm tính không bị rung động, sống yên ổn trong cõi trần hoàn, có vậy mới đúng.

18.

ĐÁT DIỆT THA

Đát diệt tha chính là kiếm ngữ của bản thân đức A La.

DỊCH: (Đát diệt tha) tức là lời thuyết chú. Câu này chủ yếu chỉ các pháp môn của đức Bồ Tát gồm có thánh hiệu, bi tâm, chân ngôn, chủng tử, thủ ấn, trí nhỡn..và đồng nghĩa với chữ sở vị (có nghĩa là).

GIẢI: (Đát diệt tha) có nghĩa là lòng chí thành không bao giờ đứt đoạn, tâm và đạo cùng hợp nhất.

GIẢNG: Sự tu hành không phải là quá khó khăn, mà chủ yếu là ở lòng thành. Câu này có tính cách tiếp theo đoạn văn nói trên về sự lòng thành. Vì thế muốn chúng ta giữ kỹ lòng thành không bao giờ gián đoạn. Nếu chúng ta có thể chuyển tâm trì ý, không chút mảy may hư ngụy, thời đạo có thể cảm thông ngay với tâm, tức thời tâm hợp với đạo. Trong quá trình tu đạo, điều đáng sợ nhất là tà niệm nổi lên, nếu tà niệm phát khởi, thân tâm tất nhiên không thanh tịnh, làm cho tình nghĩa chia lìa, rắc rối, sẽ không bao giờ được hưởng sự an lạc. Cũng vì lẽ trên, chúng ta cần tu đạo thân thể. Nếu thân tự tại, đạo sẽ tự tại. Khiến cho đụng đến chỗ nào cũng gặp đạo, theo đến chỗ nào cũng là đạo. Cần biết rõ đạo không ở đâu xa, mà có thể tim 2ngay trong mọi sinh hoạt hằng ngày. Đạo không phải ở nơi hang sâu núi thẳm, không phải ơ nơi sông sâu biển lớn, mà chỉ cần làm điều thiện chí, thời bất cứ ta đến nơi nào cũng là nơi chí thiện. Lâu ngày thời muôn vàn căn duyên đều được giải thoát, và xuất hiện thân đức A La Hán, và trở thành bực uy đức hiếm có trên đời.

19.

ÁN A BÀ LÔ HÊ

Án a bà lô hê, đó là bản thân đức Quán Thế Âm Bồ Tát, tay để ở trước ngực.

DỊCH: (Án) có nghĩa là dẫn đường sinh ra. (A bà lô hê) có nghĩa là Quan Âm.

GIẢI: (A bà lô hê) có nghĩa là Đạo Pháp không ngoài sự thanh tịnh.

GIẢNG: Việc tu đạo chủ yếu là sự thanh tịnh, đó là điều đáng lưu ý nhất. Thanh có nghĩa là mọi sự suy nghĩ đều phải thanh tịnh, lắng trong. Còn tịnh có nghĩa là lòng không bị ô nhiễm bởi tạp niệm. Chúng ta tu đạo, vì như chém đinh chặt sắt, không chịu sự quấy động của ma quỷ. Nếu có thể một lòng khắc phục mọi tà niệm, cẩn thận tự răn, vứt bỏ hết mọi sự trần duyên, như vậy mới có thể hồi phục được Phật tính viên mãn bản lai. nếu mọi sự động tĩnh đều được thanh tịnh, thời sẽ thành đạo một cách không ngờ. Nhưng phần lớn người đời không tin tưởng ở sự đại giải thoát của đức Bồ Tát. Đó là sự tu hành trong ngũ trọc ác thế, đến nỗi ly khai khỏi xã hội, thoát ly nhân quan, một mình đi vào chốn núi sâu rừng thẳm để tu hành, và tìm nơi thanh vắng để thanh tịnh đạo pháp, đó là một quan niệm hết sức sai lầm.









20.

LÔ CA ĐẾ

Lô ca đế là bản thân đức Đại Phạm Thiên Vương và thần tiên là bộ lạc.

DỊCH: (Lô ca đế) có nghĩa là lương tâm không bị tăm tối. Khắp thân thể đều sáng chói, có ý nói cùng một thể với trời đất.

GIẢNG: Câu này là lời khuyên cáo chúng sinh của đức Bồ Tát, tu đạo cần giữ gìn lương tri không nên làm hại, phải đề phòng từng giờ từng phút, sớm chiều giữ gìn, thường xuyên duy trì bảo hộ, nơi nơi đều giữ vững tinh thần. Người ta vốn cùng một gốc rễ với trời đất, và cùng một thể với muôn loài. Nếu giữ được bản tính cố hữu, tức là thành Phật. Vì vậy chúng ta không để cho một mảy may vọng động. Một khi tâm đã vọng động, trong thân tất bị bớt xén một phần chính khí. Khi có vọng tưởng xâm nhập, trong mình lại thêm một thứ tà khí, như vậy làm sao có khả năng thành Phật. Vì thế, việc tu đạo cần làm sao cho chân tâm không bị phân tán.


21.

CA RA ĐẾ

Ca ra đế, chính là vị Đế Thần to lớn, sắc đen.

DỊCH: (Ca ra đế) có nghĩa là lòng từ bi, cứu khổ nạn và hưng đạo nghiệp.

GIẢI: (Ca ra đế) có nghĩa là đạo tâm bền vững, được đại trí tuệ.

GIẢNG: Câu này bao hàm lòng từ bi của đức Bồ Tát, đưa người vào cõi tu đạo và nơi thắng địa, được thành Phật Tác Tổ không phải là điều hiếm hoi kỳ lạ, mà chỉ cần một lòng một dạ. Theo nguyên tắc, tâm đã định thời khí được bình, giống như nước đã được lọc trong, hết thảy sẽ tự nó được phong quang. Vì lẽ đó, một người tu đạo chân chính, bất kể khi gặp phải tai nạn lớn hay bất kể một khó khăn nào, đều được bình yên vô sự, hoàn toàn yên ổn. Chỉ có hình thức này mới có thể biến hung thành cát, chuyển hoạ thành phúc.



22.

DI HÊ LỊ

Di hê lị, do chính là đức Mê Tề thủ La Thiên Thần lãnh thi6n binh sắc xanh trong ba mươi ba cõi trời.

DỊCH: Di hê lị có nghĩa là thuận giáo, là vô tâm.

GIẢI: (Di) là hình, ngoại di. (Hê) là chúng sinh. (Lị) là quảng hóa, phổ biến rộng rãi.
GIẢNG: Bồ đề tức là lòng từ bi không bờ bến, chủ sự lợi nhân tế vật, phổ hóa hết thảy chúng sinh. Vì thế bất kể một loại chúng sinh nào bị lạc lỏng bơ vơ bất hạnh, đức Bồ Tát sẽ theo âm thanh mà phổ hóa, mà nguyên cớ chính là một thứ xuẩn động hàm linh đều có Phật tính.


23.

MA HA BỒ ĐỀ TÁT ĐỎA

Ma ha bồ đề tát đỏa có nghĩa là thực tâm, không có tạp loạn tâm.

DỊCH: (Ma ha bồ đề tát đỏa) là theo đại đạo, có tâm đạo dũng mãnh. Từ chữ Đát diệt tha cho đến câu này, biểu lộ cái đức Định tuệ lưỡng túc của đức Bồ Tát (đủ hai phương diện trí tuệ và yên tĩnh). Muôn ngàn đạo hạnh đều chứa chất ở trong thân. Đó là cái tâm của chúng sinh không bị tướng ràng buộc. Vì thế Ngài đã hiện đủ ba mươi hai ứng thâu thân để tế độ chúng sinh.

GIẢI: (Ma ha) có nghĩa là Phật Pháp hết sức quảng đại, tất cả mọi người đều có thể tu hành. (Bồ đề) có nghĩa là nhìn thấy thế giới đều là KHÔNG. (Tát đỏa) tức là không có đạo nào ở trên, vạn pháp đều là không.

GIẢNG: Câu này là đức Bồ Tát chỉ cho những người tu đạo trước hết phải gạt bỏ mọi ham mê về công danh phú quý, và coi những thứ đó như bọt nước. Có vậy sau mới có thể nghiêm chỉnh, thanh tịnh thân tâm, và khiến cho không một mảy may tạp niệm phát sinh. Đặc biệt đối với những kẻ mới học, phải có chân tâm vững vàng và gắng công, chịu khổ để tìm đường giải thoát. Cần nhất đừng để vướng mắc bởi sắc tướng. Người và Pháp đều không thể tiến sâu vào đạo pháp, nếu không coi hết thảy đều là không, thân tâm đều bị thanh sắc ràng buộc, thời không có cách nào để thoát khỏi vòng sinh tử.


24.

TÁT BÀ TÁT BÀ

Tát bà tát bà, đó chính là Hương Tích Bồ Tát, bắt quỷ binh năm phương phải theo hầu, đó là điều không thể chối cãi được.

DỊCH: (Tát bà tát bà) có nghĩa là Phật Pháp tay mắt đều có ấn báu.

GIẢI: (Tát bà) có nghĩa là Phật Pháp bình đẳng, lợi lạc cho tất cả chúng sinh, hết thảy mọi kẻ có duyên đều có thể được hưởng lợi lạc.

GIẢNG: Câu này chính là chân ngôn của đức Bồ Tát, biểu thị rõ cái tướng mạo không thể bàn cãi với những biện tài không bị trở ngại, và lợi lạc hết thảy đều có duyên. Đương lúc Ngài phổ độ chúng sinh trên khắp mặt đất, Ngài có răng dạy chúng ta cần nhất không được coi rẻ kẻ khác, hết lòng hết dạ, cho dù đất sập cũng không ngại gian nan. Một lòng tiến lên phía trước, có thể mới có thể làm lợi lạc cho chúng sinh. Nếu gặp được Phật duyên nhưng không gắng công tu trì, hoặc vẫn ham quý sắc tướng, quên hẳn việc lớn là sống chết, hoặc trước cần sau biếng, chí hướng không được chuyên nhất, nửa tin nửa ngờ dùng dằng không tiến lên được. Như vậy không những không thể tu được đạo, mà còn bị đày đọa vào chốn bụi trần, vĩnh viễn không bao giờ siêu thoát được.


25.

MA RA MA RA

Ma ra ha ra, chính là Phạt ngữ của đức Bạch Y Bồ Tát tay cầm như ý tướng.

DỊCH: (Ma ra ma ra) có nghĩa là tăng trưởng, như ý, tùy ý, tức là chỉ về Như Ý Thủ Nhãn.

GIẢI: (Ma ra) có nghĩa là những kẻ tu đạo tất nhiên sẽ được ngọc báu Như Ý. Câu thứ hai (Ma ra) nó là Như Ý châu trong suốt, sáng tỏ tròn trịa không ráp.

GIẢNG: Câu này chính là chân ngọn của đức Bồ Tát khuyên những người tu đạo, nếu muốn được Như ý bảo châu, cần phải giữ gìn chân ngôn về Như Ý Quả. Ý thường do tâm mà phát khởi. Vì thế chúng ta thông thường cho rằng một khi có một ý nghĩ phát xuất thời cho đó là ý. Vậy thì kẻ tu đạo, cần nhất phải quét sạch mọi tạp niệm, rửa hết mọi sự lo lắng để tìm sự chân thực. Trong lòng cần được trong sạch bình thản, tuyệt đối không để cho mảy lông hay sợi tóc làm trở ngại.


26.

MA HÊ MA HÊ RỊ ĐÀ DỰNG

Ma hê ma hê rị đà dựng, đó chính là bản thân đức Bạch Phát Di Đà, là thung dung.

DỊCH: (Ma hê ma hê) có nghĩa là vô tâm cực ý, đại tự tại, có ý chỉ về Ngũ Sắc Vân Thủ Nhỡn. (Rị đà dựng) là tâm hoa sen, có ý chỉ thanh Hoa Liên Thủ Nhỡn. Câu này chính là hóa thân của đức Bồ Tát.

GIẢI: (Ma hê) với (Ma ha) có nghĩa giống nhau, là đại tự tại tức thời. Còn (Ma hê) có nghĩa là người tu đạo không lúc nào là không tự tại. (Ri đà dựng) nói khi tu thành Kim Cương Pháp Thân, sẽ được ngồi bảo tọa hoa sen.

GIẢNG: Câu này chính là chân ngôn của đức Bồ Tát, hy vọng toàn thể chúng sinh mau chóng tu đạo, mọi việc được bắt nguồn từ trung đạo. Lòng người ta như cõi thái hư, trong ngoài đều trong trắng như nước chảy mây trôi, mảy may không bị ngưng trệ. Như vậy, thời không có ý nào trở thành thân Kim Cương thất hoại. Chỉ hiềm nỗi người đời tham lam chấp mê thái quá, vì thế đã đánh mất cơ hội thành Phật. Hãy nghĩ kỹ xem: người ta dù có sống lâu đến đâu cũng không quá được trăm tuổi, từ nhỏ đến khi khôn lớn, rồi khôn lớn đến già, rồi suy yếu. Kinh qua những giai đoạn kể trên chịu biết bao nhiêu phiền não, vất vả, luôn luẩn quẩn trong vòng anh hùng không chìm đắm trong danh lợi, ái ấn, thời cũng sa vào vòng tửu sắc tài khí, tiêu phí thời giờ, như vậy có gì đáng quý? Như vậy chúng ta cần phải mỗi ngày ba lần tự xét.

27.

CU LÔ CU LÔ KIẾT MÔNG

Cu lô cu lô kiết mông, đó chính là đức Không Thân Bồ Tát, Áp Thiên Đại Tướng Quân, lãnh hai mươi vạn ức thiên chúng.

DỊCH: (Cu lô cu lô) có nghĩa là tác pháp, tác dụng trang nghiêm, thổi ốc kết cõi, bảo loa thủ nhỡn. (Kiết mông) có nghĩa là biện sự, công đức. Câu này là hóa thân của đức Bồ Tát.

GIẢI: Cu lô có nghĩa là phát tâm, tu đạo, có thể làm cảm động đến các vị thiên thần và đến trợ giúp (kiết mông) là mọi người tu đạo nên vun trồng mọi công đức, để làm căn cơ cho sự chứng quả.

GIẢNG: Câu này là chân ngôn của đức Bồ Tát, khuyên mọi người tu đạo, chỉ cần phát thiện niệm, các vị thần sẽ theo sát, khiến cho mọi việc làm đều thành tựu. Nếu người ta có thể tích lũy công đức, bền chí tu trì, trước sau như một, sẽ thành pháp thân vô lượng công đức. Tất cả các loại ma quái, oan quỷ, cũng sẽ đều sợ hãi, khuất phục. Thế mới biết lợi ích của việc tu đạo thật là vô cùng thần diệu, có đủ lực lượng không thể bàn cãi được. Nhưng có một điều vô cùng đáng tiếc, người đời chỉ biết đại đạo khó thành, mà không tự xét lại, không chịu tu hành, nói ra thấy là vô cùng thảm thương. Người tu hành ví như đắp một cái đài, nếu nền móng không vững, không những không dựng cho chiếc đài đó được tốt, mà còn lo sẽ bị sụp đổ. Vì thế kẻ tu đạo, cần phải lập chí lớn, chân đạp nơi đất vững chắc, cứ theo từng bước chân mà đi.

28.

ĐỒ LÔ ĐỒ LÔ PHẠT XÀ DA ĐẾ

Đồ lô đồ lô phạt xà da đế, đó chíh là đức Nghiêm Tuấn Bồ Tát, áp Khổng Tước Ngọc Man Binh.

DỊCH: (Đồ lô đồ lô) có nghĩa là qua bể, trong sáng vượt qua bờ bên kia. Sang mà sau quyết định rồi sau yên tĩnh. Đó chính là nghĩa chữ Nguyệt Tịnh Ma Ni Thủ Nhãn (Phạt xa da đế) có nghĩa là quảng bác nghiêm tịnh, độ được việc lớn sinh tử, là bàng bài thủ nhãn. Trọn câu có nghĩa là hóa thân của đức Bồ Tát.

GIẢI: (Đồ lô) ý nói người tu đạo cần phải vững vàng đôi chân, một lòng tu trì, đừng để cho ngoại đạo mê hoặc. (Đồ lô đồ lô) có nghĩa là sáng sủa và quyết đoán, định và thanh tịnh. (Phạt xa da đế) có nghĩa là quảng bác nghiêm tịnh, có thể siêu thoát được sự sống chết khổ não.

GIẢNG: Câu này chính là chân ngôn của đức Bồ Tát giáo hóa người tu đạo, cần nhận rõ con đường phải đi, và tìm được cái đạo lý lớn lao, thuần chính, một lòng một ý hướng về phía trước mạnh tiến, trước sau không trễ nải. Tiếc thay, những kẻ học đạo trên thế gian, thường không phân biệt tà chính, không xét chân ngụy, không tu chính đức, không hỏi minh sư. Khi gặp phải bàng mônlà tu hành tập luyện, nếu nay không học cái này, thời mai sẽ học cái khác, với tư dục đầy lòng, mà mong cầu thành Phật, thật đáng tiếc. Chỉ mong dùng các đồng đạo, khi biết tới đạo thời đạo ở trước mắt, Phật ở trong lòng, thấu triệt cái lẽ sơ trung, dần dần tiến bước, sẽ đạt tới cảnh giới tự tại.

29.

MA HA PHẠT XÀ DA ĐẾ

Ma ha phạt xà da đế giống như pháp?

DỊCH: (Ma ha phạt xà da đế) có nghĩa là đạo pháp rực rỡ bao la không bờ bến, chính là chỉ về hóa thân của đức Bảo Kích Thủ Nhỡn Bồ Tát.

GIẢI: (Ma ha phạt xà da đế) chủ ý nói đạo pháp bao la không bờ bến, có thể giải thoát mọi khổ não cho chúng sinh, không bị mọi thứ độc hại.

GIẢNG: Câu này chính là chân ngôn của đức Bồ Tát, Ngài không ngần ngại nhắc đi nhắc lại nhiều lần, hiểu dụ người đời, có công đức không thể bàn cãi được. Chủ yếu nói: tất cả mọi người đều có Phật tính, và mọi người đều có thể thành Phật. Đạo vốn không phải là khó tu, Phật cũng không phải là khó tìm, mà điều khó chính là ở chỗ có thể hay không loại trừ hết thảy mọi vọng tưởng, tất cả mọi tư dục, cởi hết mọi căn duyên. Khi tâm đã thanh tịnh, thời tất cả mọi độc chướng không thể quấy nhiễu, đồng thời có thể loại trừ mọi khổ đau về sinh tử, tiêu trừ hết thảy mọi độc hại. Những kẻ tu đạo, nên biết khi một ý niệm phát khởi, thực là lúc Trời và Người cùng giao cảm. Còn như những tà niệm như tham, sân, si thời phải tức khắc chế ngự, tuyệt đối không nên để cho tình cảm bị chi phối bởi hoàn cảnh. Nếu dụng công đạt đến mức đó, thời việc làm Tổ hay thành Phật có thể định rõ được ngày thành tựu. Vì thế cổ nhân có nói: đạo thành do mình, Phật thành ở tâm.

30.

ĐÀ LA ĐÀ LA

Đà la đà la, đó chính là tấm thân trượng phu của đức Quán Thế Âm Bồ Tát.

DỊCH: (Đà la đà la) là tổng trì, là hóa thân của đức Tịnh Bình Thủ Nhỡn Bồ Tát.

GIẢI: (Đà la) có nghĩa là những người tu đạo, nếu không bị vẫn đục bởi một chút bụi trần, là có thể được lên cõi trời. (Đà la đà la) có nghĩa là khi lòng mình được thái khư, thanh tịnh tự nhiên, tức là có thể thường thường lui tới đất Phật.

GIẢNG: Câu này biểu thị hết thảy tinh túy của đạo pháp. Vì thế đầu tiên coi trọng đừng để cho một chút bụi trần phát khởi. Bụi trần là vật ngăn che bản tính thiêng liêng sáng láng của loài người, thường thường có tên là tạp niệm. Nếu trong lòng còn một chút cặn bã của tà niệm, tất nhiên không có cách nào để thấy rõ đạo, và mọi ma chướng sẽ theo gót mà đến. Việc tu đạo chủ yếu là trừ khử mọi tà niệm. Nếu người tu đạo có những tà niệm bất chính, thời mọi vọng tưởng sẽ theo khe hở đó mà xâm nhập. Không những nó làm rối loạn bản tính mà ngay đến cả thân tâm cũng không còn phương chế ngự. Khi bản tính đã không xuất hiện, thời làm sao tìm được sự viên mãn. Vả lại, một tà niệm coi như một kiếp luân hồi, vì thế cái động niệm gây tai hại hết sức to lớn. Người học đạo phải luôn lo lắng; mắc phải khuyết điểm này, nếu không kịp thời trừ khử, thời cho đến già việc tu đạo cũng không thành, thật uổng phí công phu.

31.

ĐỊA RỊ NI

Địa rị ni, chính là Sư Tử Vương, binh nghiệm độc tụng.

DỊCH: (Địa rị ni) có nghĩa là hết sức dũng cảm, tịch diệt và trong sạch, che chở, bẽ tung ra. Đó chính là hóa thân của đức Thiết Câu Thủ Nhỡn Bồ Tát.

GIẢI: (Địa) là thế giới, (Rị) là hết thảy chúng sinh đều được độ hóa. (Ni) là Nữ đồng trinh tu đạo. Đạo lớn không phân biệt nam nữ, vì thế con gái tu hành cũng có thể thành Phật.

GIẢNG: Đức Bồ Tát tuyên hóa câu này, tức là Ngài chuyên tâm độ nữ giới, và khuyên nên sớm tu đạo Phật. Đức Phật có nói: con gái nếu nhất tâm tu đạo, so với nam giới lại có phần mau lẹ hơn. Nữ giới thường thường ít khi ra khỏi chốn khuê môn, ưa tĩnh mịch, vì lẽ đó mà tâm được định dễ thành đạo. Con gái nếu phát tâm tu đạo, thời hết thảy đều được Trời Phật gìn giữ, lại được Long Vương, Thiên Thần ủng hộ, mà hiện ra pháp tướng bốn mươi cánh tay, hàng phục mọi loài ma quỷ hung ác, khiến cho phái nữ yên tâm vượt sang bờ bên kia. Nữ giới nên hiểu rõ lòng từ bi của đức Quán Thế Âm đại sĩ một lòng cứu đời.

32.

THẤT PHẬT RA DA

Thất Phật Ra Da, chính là đức Tích Lịch Bồ Tát, quyến thuộc hàng phục mọi loài ma quỷ.

DỊCH: (Thất Phật ra da) là Quán Thế Âm Tự Tại, phóng ra ánh sáng và hóa diệm quang, chính là hóa thân của đức Nhật Cung Thủ Nhãn Bồ Tát.

GIẢI: (Thất Phật ra da) chủ yếu nói về việc tu đạo, khi tới lúc viên mãn bản tính, thời khắp thân thể phóng ra ánh sáng rực rỡ.

GIẢNG: Câu này là chân ngôn của đức Bồ Tát, chủ yếu tuyên dương điểm huyền diệu của Phật Pháp, hy vọng người đời tu đạo, và đều được chứng quả. Một cá nhân nếu nhìn rõ hồng trần, chẳng gây ra những điều thị phi, lòng được thanh tịnh, thời có thể thành tựu, Phật thể hết sức hư không sáng sủa, đồng thời có thể tuỳ lúc, tùy nơi hiện thân thuyết pháp,cứu đời độ người. Một khi phóng ra thần quan, thời đến tám vạn bốn ngàn lỗ chân lông đều hiện ra rõ rệt. Vì thế hết thảy mọi thứ ma oán, và quyến thuộc đều phải xa lánh, không giám xâm phạm. Chúng ta đều nên đem lời yếu quyết này ra mà nghiên cứu đến nơi đến chốn, đồng thời trừ khử hết mọi thứ tham, sân, si, ái và mọi vọng niệm, khiến cho thân tâm được thanh tịnh, trần niệm không phát khởi, mọi hình thức ma quỷ như tửu sắc, tài, khí sẽ phải xa lánh. Ngược lại nếu lòng say mê uống rượu, thời con ma rượu sẽ đến ngay. Lòng ham sắc đẹp, thời con ma sắc đẹp sẽ đến ngay. Như vậy, nếu thiếu sắc đẹp thời không bao giờ thỏa mãn được lòng dục vọng. Cùng một lẽ trên, lòng say mê tài khí, thời các con ma tài và khí sẽ theo ý niệm mà đến ngay. Xét cho cùng, ma vốn không thể hại được người, chẳng ma là chính con người tự chuốc lấy tai họa mà thôi.

33.

DÁ RA DÁ RA

Dá ra dá ra, chính là bản thân đức Tồi Toái Bồ Tát, tay cầm bánh xe vàng.

DỊCH: (Dá ra dá ra) có nghĩa là hành động, đó chính là hóa thân của Bảo Đạt (Mỏ Bấu) Thủ Nhỡn Bồ Tát.

GIẢI: (Dá ra) có nghĩa là hiện sắc tức giận. (Dá ra dá ra) là hiện tướng quá tức giận. Như vậy có nghĩa là tiếng sét của đạo pháp khi đã vang lên thời mọi hành động trở thành không hết.

GIẢNG: Câu này có nghĩa là đức Bồ Tát coi hết thảy chúng sinh, đều bị mọi thứ ma quỷ cám dỗ, không thể tự giải thoát. Ngài đặc biệt hiện ra sắc tướng giận dữ để cứu độ mọi người. Ý của Ngài là răn dạy và đòi hỏi mọi người nên nhận rõ điều chân thật mà cố gắng tu hành. Như Kinh Phật đã dạy: ma chướng không ai khác hơn là lòng tư dục của con người. Vì vậy cần phải sớm nghe chính pháp để phá vỡ mọi tà vọng. Ở vào lúc bình thường vô sự, nên cố gắng suy xét cõi lòng, nếu thấy mọi dục niệm xuất hiện, thời phải chế ngự tức khắc. Không để cho các vọng tưởng ngóc đầu lên được. Công việc này đòi hỏi chúng ta luôn cảnh giác, mới có thể đạt được hiệu quả. Vì thế mới có câu nói giữ gìn ý tứ như giữ thành trì, và đốn cây phải bứng rễ, khiến cho mọi sức tiềm tàng của nó sẽ tiêu tan vĩnh viễn. Làm được như vậythời đạo pháp sẽ gầm lên như sấm động, và vang động khắp cả không gian, tất cả đều trở nên tiếng nói của nhà Phật, chấn động đủ mười phương ba cõi. Khiến cho hết thảy mọi loài yêu quái nghe thấy tiếng là sợ sệt, cũng là nhờ ở đó mà ra.

34.

MẠ MẠ PHẠT MA RA

Mạ mạ phạt ma ra, đó chính là bản thân của đức Hàng Ma Kim Vương, cầm bánh xe vàng.

DỊCH: (Mạ mạ) có nghĩa là điều mà ta đang trụ trì. Đó chính là hóa thân của Bạch Phất Thủ Nhãn Bồ Tát. (Phạt ma ra) là tối thắng ly cấu, vô tỷ như ý (nghĩa thường là rất tốt cách ly bụi bặm, sự như ý là không gì sánh được). Trọn câu này đều chỉ hóa thân của đức Bồ Tát.

GIẢI: (Mạ) có nghĩa là mọi đạo pháp xa lìa ta, đó nghĩa lý chính xác của sự tu thiện. (Mạ mạ) có nghĩa là sự thiện có thể phá trừ hết thảy mọi ác chướng tai nạn. (Phạt ma ra) có nghĩa là cõi đạo khó biết, thần diệu khó lường, và lợi ích cũng không có gì sánh kịp.

GIẢNG: Câu này chính là nỗi khổ tâm của đức Bồ Tát muốn cứu đời, Ngài hiện rõ tâm tướng từ bi, muốn hộ trì những kẻ tu đạo được đại cát và ánh sáng của điềm lành. Đồng thời có thể sinh ra từ kiếp này đến kiếp khác đều ở trong cung điện nhà Phật, tránh được cảnh đọa lạc luân hồi và mọi đường khổ não. Tiếc thay, người đời phá không nổi cái ý niệm danh lợi, lại không trừ khử được sự hoài nghi ngưng trệ. Cứ suốt ngày say mê vọng tưởng, và làm mờ tối cả tấm lòng minh chính. Vì thế có câu nói: Cõi lòng chỉ luẩn quẩn trong cảnh luân hồi. Thử nghĩ xem, cứ như vậy thời làm sao thoát ra khỏi kiếp hồng trần. Phật tổ giàu lòng từ bi, đã đặc biệt điều khiển một chiếc thuyền lớn để cứu độ chúng ta, hẹn ngày cùng trở về nơi cực lạc, không còn phải chịu cảnh khổ ải khổ não. Đức Bồ Tát không ngần ngại vất vã phổ độ chúng sinh. Vì vậy ngài lại phải giáng thế, hiển linh hóa phép để giác ngộ chúng sinh khỏi đường mê muội. Nói chung, chúng ta đều là người có tình, nên biết đức Phật Tổ ban cho tất cả mọi người đều có duyên phận và bất cứ ai cũng có thể thành tựu.

35.

MỤC ĐẾ LỆ

Mục đế lệ, chân ngôn của chư Phật, chấp tay nghe đọc.

DỊCH: (Mục đế lệ) có nghĩa là giải thoát, đó chính là hóa thân của đức Dương Chi Thủ Nhãn.

GIẢI: (Mục đế lệ) là lời chân ngôn nói về sự nhắm mắt, giữ lòng trong sạch, và lặng yên gìn giữ.

GIẢNG: câu này chủ yếu đức Bồ Tát khuyên người ta nên tu đạo, trước hết phải dứt bỏ trần duyên, lập chí cho được thuần nhất, sớm chiều suy xét, rửa sạch hết thảy mọi tư dục, phát khởi lòng đại từ bi, làm điều phương tiện, trừ khử mọi sự phiền não, sẽ được giải thoát. Đức Phật Tổ sợ lòng tin của mọi người không được vững chắc. Vì thế Ngài nhấn mạnh phải nhắm mắt và giữ lòng trong sạch để đọc thầm lời chân ngọn. Kẻ tu hànhkhi đọc bản chú này, thời chư Phật ở Tây phương đều chắp tay cung kính, thế mới biết là chân ngôn này thật là quý báu vô cùng. Thế nào là nhắm mắt, nói như thế không có nghĩa là nhắm chặt hai mắt, mà chính là nhằm mục đích chặt đứt mọi ánh sáng về màu sắc, và đừng cho giương mắt nhìn khắp bốn bề, rũ rèm để soi rọi vào phía trong lòng không có dục vọng mới thấy được sự kỳ diệu. Trừng tâm có nghĩa là khi tụng niệm suy nghĩ, cõi lòng hết sức trong sáng, không một gợn sóng nổi dậy, lòng sáng tỏ như gương, lâng lâng ngậm chứa hào quang, và lòng luôn luôn an định. Đó chính là đạt tới cõi Quán Tự Tại Bồ Tát, tiến sau vào chốn Ba La.

36.

Y HÊ Y HÊ

Y hê y hê, chính là đức Ma Tề Thủ La Thiên Vương.

DỊCH: (Y hê y hê) tức là thuận giáo, thuận triệu, tâm đáo (thuận theo lời dạy, thuận theo khi được triệu dến). Đó chính là hóa thân của đức Độc Lau Trượng Thủ Nhãn Bồ Tát.

GIẢI: (Y hê) tức là nói về người tu đạo phải an phận giữ mình. (Y hê y hê) có nghĩa là hết thảy đều phải nghe theo sự tự nhiên.

GIẢNG: Câu này chính là chân ngôn của đức Bồ Tát. Chủ yếu là dạy người tu đạo phải vui theo đạo Trời, biết mệnh, tất cả mọi sự đều do cơ duyên không nên cưỡng cầu. Người ta nếu vọng niệm không phát sanh, thời bản thể được trong sáng, dần dà lâu ngày sẽ được sự đại giải thoát. Như vậy chẳng những thân mình được lên cõi pháp giới, siêu độ cho đến bảy đời tổ tiên về trước và phúc cho con cái về sau. Ngoài ra còn có lợi ích cho những người quyến thuộc hữu tình, lại có thể tế độ toàn thể chúng sinh, lợi ích cho đến cả chư thiên thần quỷ. Đó chính là hiệu lực của chữ Thuận. Nếu chỉ muốn đạo làm công cụ, không chịu tu hành, làm những chuyện dấu diếm kỳ quái, tham lợi ngoài phận mình, đắm mình trong danh lợi tài sắc. Như vậy muốn thành Phật Tát Tổ là cũng cuồng vọng.

37.

THẤT NA THẤT NA

Thất na thất na nghĩa cũng giống như trên.

DỊCH: (Thất na thất na) là bực đại tr1i hoằng thệ, chính là hóa thân của đức Bảo Kính Thủ Nhỡn Bồ Tát.

GIẢI: (Thất na)là nói về đạo tâm luôn luôn kiên định sinh ra đại trí tuệ. (Thất na thất na) có nghĩa là người tu đạo sẽ nhận được ánh sáng đại trí tuệ.

GIẢNG: Câu này với câu: Giá la đế ở đoạn văn trên có nghĩa giống nhau. Đó chính là chân ngôn của đức Bồ Tát muốn triển khai, làm sáng tỏ cái tôn chỉ từ chỗ định tâm mà sinh ra trí tuệ. Đức Phật có dạy: Những người tu đạo luôn luôn trí tuệ sáng suốt. Nếu lấy tâm làm thể, đạo làm dụng, tự nhiên khí chất được thnah minh, nghĩa lý sáng tỏ. Nếu chí hướng không bền vững, đạo tâm lúc động bất định, không quét sạch mọi tư dục, thời không có cách nào để ánh sáng trí tuệ bản lai được xuất hiện. Ví như một vầng trăng sáng, bị nhiều lớp mây đen che khuất, mây vẫn là mây, trăng vẫn là trăng, cần phải đợi đến lúc mây tan, và trăng xuất hiện. Người ta nếu quyết chí đem tấm lòng thanh khiết để tảo trừ mọi tà niệm tận dụng công phu lâu dài kiên định để soi sáng hết thảy mọi sự, sẽ biết được hết được thực tính của sự viên minh. Được như vậy cái ngày thành Phật sẽ không xa. Đó chính là ý nghĩa câu: Bậc đại trí tuệ ánh sáng có thể soi sáng mười phương thế giới vô lượng vô biên.

38.

A RA SÂM PHẬT RA XÁ LỢI

A ra sâm phật ra xá lợi, đó chính là đức Quán Thế Âm Bồ Tát, cầm bài, nỏ, cung tên.

DỊCH: (A ra sâm) chính là Chuyển Luân Pháp Vương, là Hóa Phật Thủ Nhỡn. (Phật ra xá lợi) nghĩa là giác thân tứ, đó chính là Sở Châu Thủ Nhãn. Trọn câu đều là hóa thân của đức Bồ Tát.

GIẢI: (A ra sâm) ý nói là vượt ra ngoài đạo pháp mà là pháp vương, tự tại ở trong đạo pháp. (Phật ra xá lợi) có nghĩa là đã tu thành thanh tịnh pháp thân, sẽ được Ngọc Châu của nhà Phật.

GIẢNG: Câu này chính là chân ngôn của đức Bồ Tát khuyên mọi người tu trì, không nên quá câu nệ về phép tắc, nhưng cũng không nên xa lìa phép tắc. Ví như trong khi đang giữ phương pháp thủ khiếu, chủ yếu là không giữ mà chính là đang giữ, có thế mới được coi là khéo léo giữ phép. Nếu như theo trì quá mức, sẽ bị rợi vào cảnh giữ chặt mà không thủ đắc được phép tắc. Về phương diện phản chiếu thời cũng giống như vậy, cốt làm sao cho đúng ý nghĩa soi ở chỗ không soi mới được coi là soi đúng, soi khéo. Nếu cứ khư khư dùng cách dương quang phản chiếu, tất nhiên sẽ mất hết bản chân. Kinh Hoa Nghiêm có nói: Người nên quan sát kỹ pháp vương, phép tắc của pháp vương như vậy, sắc tướng không có biên giới, và phổ biến khắp thế gian. Đó chính là điều được gọi là vượt ra ngoài phép tắc, mà là ý nghĩa của hai chữ Pháp Vương. Còn như khi dụng công tu hành, tất phải làm sao cho được Tĩnh mà Vô Tĩnh, quên sự tĩnh, chính là sự tĩnh vô cùng thần diệu. Động mà không động, quên được cái động tứ là sự động hết sức kỳ diệu. Như vậy có nghĩa là khéo giữ được phép, tự tại ở trong phép, mới có thể chứng được Phật quả. Điều này hết sức rõ ràng minh bạch. Chúng ta nên hiểu rõ cái đại đạo “Liễu sinh thoát tử”. Đã đành khi muốn xuất thế, đồng thời cũng phải nhập thế, làm hết đạo con người, mới mong thành Phật.

39.

PHẠT SA PHẠT SÂM

Phạt sa phạt sâm cũng giống như trên

DỊCH: (Phạt sa phạt sâm) là tiếng nói vui, tiếng cười vui, là bực trượng phu, sĩ phu. Đó chính là hóa thân của đức Bảo Cung Thủ Nhỡn Bồ Tát.

GIẢI: (Phạt sa) là nói về kẻ sĩ có đạo làm việc nhẫn nại. (Phạt sâm) ý nói niềm vui của kẻ thành đạo không có gì sánh kịp.

GIẢNG: Khi đức Bồ Tát đọc chú đến chỗ này, Ngài hết sức thương xót chúng sinh không đủ sức chịu đựng nhẫn nhục, mà tỳ khí bị vọng động. Vì vậy Ngài phát lòng từ bi nói rõ: Niềm vui của kẻ tu đạo trước hết là phải phát xuất từ chỗ tu luyện gian khổ. Nếu chịu đựng được sự thống khổ, thời sẽ đạt tới bờ cõi cực lạc. Sự nhẫn nại của con người ta không chỉ giới hạn ở chỗ đói khổ vất vả trong thế gian, mà chính là ở chổ cần nhẫn nại khi tâm động hết thảy mọi thứ. Trong đó không những không thể nổi giận, mà còn phát khởi cái tinh thần vô úy (không sợ), đem sắc thân bỏ ra ngoài vòng cương tỏa. Hết sức nhẫn nại, khiến tới chỗ Vô Ngã. Đó chính là yếu quyết NHẪN NHỤC BA LA MẬT.

40.

PHẬT RA XÁ DA

Phật ra xá da chính là bản thân đức Phật A Di Đà, sư chủ của đức Quán Thế Am Bồ Tát.

DỊCH: (Phật ra) chính là tấm thân. (Xá ra) là đại tượng. Trọn câu nghĩa là sự tự giác của Tượng Vương. Đó chính là hóa thân của đức Tử Liên Hoa Thủ Nhỡn Bồ Tát.

GIẢI: (Phật ra xá da) chính là nói về người thành đạo, nếu bỏ được lòng tham, đánh thức được bộ mặt gốc, sẽ khiến cho chư Phật mười phương thấy được mặt.

GIẢNG: Câu này chính là chân ngôn của đức Bồ Tát khuyên toàn thể chúng sinh sớm phát khởi lòng Bồ Đề, tu trì đạo pháp huyền diệu, coi hết thảy mọi sắc tướng đều là không, lấy đạo là Tâm, thời có thể cùng chư Phật mười phương tới lui thấy mặt. Nghĩa là không nhiễm một hạt bụi, đại đạo được tôn vinh, chính là đạo lý nêu trên. Không dè quá nửa số người trên thế gian chấp mê không tỉnh, cam tâm sa đọa nơi bể khổ, cứ lấy giả làm chân, lấy hư làm thực, chỉ tham vợ đẹp thiếp non, vàng bạc châu báu trước mắt. Không vậy, thời cũng chỉ lo mua ruộng đất, cất nhà cao. Như vậy, mà họ không biết đó chỉ là những vật ở ngoại thân, sự hưởng thụ chẳng qua chỉ vài chục năm mà thôi. Nếu gặp lúc vô thường xảy tới, thời muôn sự đều không. Vì lẽ đó mà cổ nhân đã từng nói: Những bậc anh hùng xưa kia, bóng dáng nay ở chốn nào? Thuở đó thật là vinh hoa phú quý, xét ra cũng chỉ là một trường xuân mộng mà thôi. Con người đến lúc này mới thấy rõ thuở sinh tiền chẳng qua chỉ là một giấc mộng, muốn qua đầu trở lại thì đã quá muộn rồi. Những ai giữ được phú linh tính hậu (phú tính linh thiên thuần hậu), hãy mau mau tỉnh ngộ,khám phá thấy rõ mọi sự tu trì dự trước sẽ trả lại bộ mặt thật của chúng ta. Nếu cứ mãi miết tham luyến hồng trần, trăm năm chỉ trôi qua trong nháy mắt, sống chết trong khoảnh khắc. Mới hôm trước cỡi ngựa ở đầu làng, hôm nay đã thành tử thi trong quan tài. Thật đáng thương thay!


41.

HÔ LÔ HÔ LÔ MA RA

Hô lô hô lô ma ra chính là Bát Bộ Quỷ Thần vương.

DỊCH: (Hô lô hô lô ma ra) có nghĩa là làm phép được như ý, làm phép không xa lìa bản ngã. Đó chính là hóa thân của đức Ngọc Hoàn Thủ Nhãn Bồ Tát.

GIẢI: (Hô lô) là hiện thần quỷ tướng. (Hô lô hô lô) là nhân hiện thần quỷ tướng mà hàng phục được chúng quỷ. (Ma ra) hiện ra tướng hoan hỷ như ý.

GIẢNG: Câu này chính là chân ngôn của Bồ Tát, dạy những người sau khi tu thành đạo, thời thần thông quảng đại, biến hóa vô cùng hoặc hiện thần quỷ tướng, hàng phục chúng quỷ, hoặc hiện hoan hỷ tướng, lợi tế chúng sinh, tất cả mọi điều đều được tùy ý tự tại. Vì thế những người đã chứng đạo quả, đều được hưởng phúc báu lâu dài. Mọi sự giàu sang trong trần thế, chỉ là sự hưởng thụ nhất thời, phương chi lại còn phải trãi qua biết bao chướng ngại. Cổ nhân thường nói: Của nhiều thời họa nhiều, quan cao thời càng nhiều nguy hiểm. Những cảnh phú quý đó làm sao sánh kịp sự tùy ý dong chơi tự tại.


42.

HÔ LÔ HÔ LÔ HÊ RỊ

Hô lô hô lô hê rị chính là Tứ Tý Tôn Thiên Thần Trứ Liễu Diệp Khải.

DỊCH: (Hô lô hô lô hê rị) có nghĩa là tác pháp vô niệm, tác pháp tự tại. Đó chính là hóa thân của đức Bảo Bát Thủ Nhãn Bồ Tát.

GIẢI: (Hê rị) là tác pháp tự tại. Trọn câu nghĩa là tác pháp cần được ung dung tự tại, không mảy may khổ não.

GIẢNG: Câu này là chân ngôn chủ yếu nói về người tu đạo, việc thi hành phép tắc phải được ung dung tự tại (thoải mái), không có sự gò bó, gượng ép. Tùy nơi tùy lúc có thể tùy ý mà hiện hóa, mảy may không bị trì trệ. Muốn cứu người bệnh đau ốm, tất nhiên phải hiện thân thành thầy thuốc, vì sợ người đời mà cứu giải hết thảy mọi bệnh tật. Đức Bồ Tát sỡ dĩ được tự tại như thế, không gì khác hơn do lòng từ bi tràn ngập của Ngài. Chủ yếu của việc tĩnh tọa, là do không để cho mọi dục niệm nổi dậy. Tấm lòng thành thật và ngay thẳng luôn luôn kết hợp với nhau, khiến cho bản tính không bị tối tăm. Nhưng tiếc thay, đa số người đời cứ chấp mê không chịu tỉnh ngộ, không chịu phá bỏ trần duyên, đành cam tâm để cho mọi dục niệm sai khiến trói buộc. Xưa nay, những bậc tổ sư thánh hiền, đều là những kẻ sĩ cao minh trong thế gian. Những người này thường thấy rõ mọi dục vọng ở thế gian nên đã lập lời hoằng nguyện , quyết tâm siêu tục mà tu đạo.


43.

TA RA TA RA

Ta ra ta ra chính là Ngũ Trọc Ác Thế.

DỊCH: (Ta ra ta ra) có nghĩa là sức bền chắc, chính là hóa thân của đức Kim Cương Sử Thủ Nhãn Bồ Tát.

GIẢI: (Ta ra) chủ yếu khuyên người tu đạo nên phải có sức bền chắc. (Ta ra ta ra) có nghĩa là người tu đạo không những phải có sức bền chắc, đồng thời cũng cần có hằng tâm, một mực không hai, giữ gìn liên tục, trước sau như một.

GIẢNG: Câu này chính là chân ngôn của đức Bồ Tát căn cứ vào lời chú kể trên mà thuyết minh. Muốn được sự hiệu nghiệm kể trên, thời trước hết phải coi sắc thân là một ảo cảnh. Do đó mới phát nguyện siêng năng tu hành. Ngoài ra, lại giữ một lòng kiên nhẫn không dời chuyển được, một lòng hướng về đạo, kiên định không bao giờ dời đổi . Có như vậy, ở trong vòng ngũ trọc ác thế mới không bị hình hình sắc sắc làm cho rung động mới ó thể siêu thoát cảnh sinh tử khổ não, và được chứng quả vị thanh tịnh. Đương nhiên mọi loài ma quỷ không dám xâm phạm, chúng ác cũng cách ly. Nếu lập chí không bền, giữ lòng không được lâu bền, nhận thức lý lẽ không được chính xác, không dốc lòng tin đạo, khi tiến khi lui, lúc làm lúc nghỉ. Muốn tiến về phía trước, nhưng lại lùi về phía sau, chỉ nhắm cái hư mà không nhìn thấy cái thực, tâm thân hoảng hốt bất định. Như vậy không có cách nào để đạt tới mục đích tu hành. Cũng không thể thành dạ trở về làng, ung dung tự tại mà làm phép. Vì lẽ đó, người tu đạo cần có nghị lực bền vững lâu dài, không trễ biếng. Có vậy mới trở thành cái đạo kiên cố. Hai chữ kiên cố, các bậc học giả không thể coi thường được.

44.

TẤT RỊ TẤT RỊ

Tất rị tất rị tức là đức Quán Thế Âm làm lợi ích cho hết thảy chính sinh, điều này không thể bàn cãi được.

DỊCH: (Tất rị tất rị) là điềm lành dũng mãnh thắng lợi. Chính là hóa thân đức Hợp Chưởng Thủ Nhỡn Bồ Tát.

GIẢI: (Tất rị) có nghĩa là có thể làm lợi cho tất cả chúng sinh. (Tất rị tất rị) có nghĩa là lòng yếu mến hết thảy cmọi chúng sinh, không bỏ rởi một ai. Trọn câu có nghĩa là điềm lành thắng lợi không thể bàn cãi được.

GIẢNG: Câu này chủ yếu nói: Nếu có người nào phát tâm thệ nguyện, vứt bỏ mọi thứ hồn g trần, chuyên làm những công việc tế nhân lợi vật, lâu ngày công đức được viên mãn, cảm động đến chư Thiên Phật Tổ. Vì thế câu này chính là chân ngôn chứng từ bi pháp. Trì tụng bản kinh chú này, không chỉ dành cho việc hộ niệm những người có cơ duyên, mà gồm cả lục đạo chúng sinh cũng có thể được nhờ lòng lành bảo hộ mà thành đạo. Ngay cả đến Trời, Người, A Tu La cũng đều tùy hỷ. Những loài dã thú như rồng, rắn, chó sói, sư tử, voi cũng đều cung kính ái mộ.

45.

TÔ RÔ TÔ RÔ

Tô rô rô rô nghĩa là tiếng rụng lá câu của chư Phật.

DỊCH: (Tô rô tô rô) là nước Cam Lộ, chính là hóa thân của đức Cam Lộ Thủ Nhỡn Bồ Tát.

GIẢI: (Tô rô) là nói về việc sinh ra nước Cam Lộ, mà có thể làm lợi cho hết thảy chúng sinh.

GIẢNG: Đức Bồ Tát nói ra lời chân ngôn này là Ngài có ý chỉ bảo cho người tu đạo, khi dụng công tu hành phải làm sao đạt tới mức là nước trong ao bát công đức thủy có thể lên xuống theo ý muốn. Chúng ta có dùng nước đó để thấm nhuần tâm, tưới khắp muôn loài, thời hết thảy mọi sự đói khát, nóng nảy, khổ não đều được trong mát. Vì lẽ đó mới gọi là nước Cam Lộ.

46.

BỒ ĐỀ DẠ BỒ ĐỀ DẠ

Bồ đề dạ bồ đề dạ, đó chính là đức Quán Thế Âm Bồ Tát kết duyên với chúng sinh.

DỊCH: (Bồ đề dạ bồ đề dạ) có nghĩa là giáo đạo, giáo tâm. Đó chính là hóa thân của đức Bất Khoái Kim Luân Thủ Nhỡn Bồ Tát.

GIẢI: (Bồ đề dạ) là nơi kẻ tu đạo khi đã xuống tay (quyết tâm), cần có một lòng dũng cảm tiến lên, ngay đêm tu đạo. (Bồ đề dạ bồ đề dạ) ý nói người tu đạo phải nhật trí từ trước tới sau, vĩnh viễn không bao giờ lùi bước.

GIẢNG: Câu này ý nói đức Bồ Tát căn dặn những người tu đạo, ngoài sự phát Bồ Đề tâm, cũng cần phải phát triển tinh tiến tâm, không màng thanh sắc, không để sa mình vào hang lửa, không sợ phong sương. Có vậy mới đạt được mục đích. Nếu có thể làm được công việc chế ngự được mọi vọng tưởng, chuyên chú một lòng chí, nhẫn nhục gánh vác nặng nề, chịu đựng vất vả, thời đạo tâm ngày một trường cửu, công hiệu ngày càng tăng tiến. Như vậy việc siêu thăng nơi cực lạc sẽ không có gì khó khăn. Vì lẽ đó mà đức Bồ Tát căn dặn mọi người tu đạo, cần có tâm chí vĩnh viện không bao giờ thoái lui, dụng công phu bền bỉ không dời đổi, và quyết một lòng trước sau như một.



47.

BỒ ĐÀ DẠ BỒ ĐÀ DẠ

Bồ đà dạ bồ đà dạ, chính là bản thân của đức A Nan.

DỊCH: (Bồ đà dạ bồ đà dạ) có nghĩa là bậc trí giả, giác giả. Chính là hóa thân của đức Đính Thượng Hóa Phật Thủ Nhỡn Bồ Tát.

GIẢI: (Bồ đà dạ) nói về người tu đạo cần phải hiểu rõ người với ta điều cùng là một thể, tuyệt đối không sự mảy may phân biệt. (Bồ đà dạ bồ đà dạ) là nói người tu đạo không những phải nhận thức rõ ý niệm không có tướng ta, không có tướng người. Như vậy, có nghĩa là hết thảy ác đạo chúng sinh ở trên thế gian này cũng đều được đối xử bình đẳng.

GIẢNG: Câu này biểu lộ lòng từ bi quảng đại của đức Bồ Tát. Với Ngài, bất kể những kẻ lành hay người ác, đều có thể cùng nhau về nơi cực lạc. Nếu có chúng sinh nào bất hạnh mà sa vào con đường ác đạo, đức Bồ Tát cũng mở đường cứu vớt hết thảy. Nếu kẻ tu hành mà còn phân biệt tướng ta với tướng người, thời mọi ác niệm sẽ đến tràn ngập cõi lòng; vì thế mà việc đi tới đạo Phật là xa xôi. Người tu đạo, bất cứ nơi nào cũng phải lấy từ bi làm gốc. Hành động mọi việc đều phải lấy chữ nhân từ làm phương châm. Tất cả mọi cử chỉ, động tĩnh đều không xa lìa đạo đức. Có như vậy mới mong thành đạo.

48.

DI ĐẾ RỊ DẠ

Di đế rị dạ, chính là đức Đại Xa Bồ Tát, tay cầm kim đao.

DỊCH: (Di đế rị da) có nghĩa là đại lượng, lòng đại từ bi. Đó chníh là hóa thân của đức Tích Trượng Thủ Nhãn Bồ Tát.

GIẢI: (Di đế rị dạ) nói người tu đạo nên phát khởi lòng từ bi, khiến cho thảy chúng sinh đều có thể thành đạo.

GIẢNG: Câu này nói về lòng từ bi của đức Bồ Tát đặc biệt chỉ dạy cho người tu đạo, khiến cho hết thảy chúng sinh đều đạt tới cõi đạo. Người ta cũng như chúng sinh, đều có thể thành đạo, chỉ có phương pháp tu trì không giống mà thôi. Vì thế những người học đạo Phật cố nhiên cần phải phát tâm nhưng cũng cần tìm cách được gần gũi các bậc minh sư. Vì thế đức Bồ Tát động lòng từ bi, khuyến cáo những người tu đạo, lấy lòng yêu mến mình, rồi từ chỗ suy ra từ mình đến người mà tìm cách độ thoát một loạt. Đó chính là tinh thần Đại Thừa của Phật giáo.





49.

NA RA CẨN TRÌ

Na ra cẩn trì, chính là nói đức Long Thụ Bồ Tát, tay cầm kim đao.

DỊCH: (Na ra cẩn trì) chính là bậc hiền giả có thể bảo vệ che chở. Đó chính là hóa thân của đức Bao Đính Thủ Nhỡn Bồ Tát.

GIẢI: (Na ra cẩn trì) ý nói người tu đạo khi thấy bậc hiền giả nên bày tỏ lòng thân ái, thấy kẻ thiện giả nên bảo hộ. Nói một cách khác, chính là có ý nói từ bi thân ái.

GIẢNG: Câu này chính là đức Bồ Tát có ý muốn dạy bảo người tu đạo khi thấy người hiền hiếu cũng như người từ thiện, nên có tinh thần tương thân tương ái, cùng mưu tìm con đường đạo hạnh. Đức Phật có nói: Tất cả mọi chúng sinh đều được bình đẳng, và tất cả mọi sự đối nhân hay đối vật cũng đều như thế cả. Phần này đặc biệt nêu ra những bậc hiền giả, thiện giả để làm đại biểu. Điều quý nhất của kẻ học giả là việc học phải chuyên cần như đẽo như mài. Dĩ nhiên không thể phân biệc về chức nghiệp sang hay hèn, cũng không phân biệt giai cấp cao hay thấp, chỉ cần những kẻ có đức là có thể tương thân tương ái. Vì vậy đối với những ai thối chí, cần khuyến khích họ, để hẹn ngày cùng trở về quê hương, và cùng chứng Phật quả.

50.

ĐỊA RỊ SẮT NI NA

Địa rị sắt ni na, chính là đức Bảo Lung Bồ Tát, tay cầm thiết xoa.

DỊCH: (Địa rị sắt ni na) nghĩa là thanh gươm sắt bén, đó chính là hóa thân của đức Bảo Kiếm Thủ Nhỡn Bồ Tát.

GIẢI: (Địa rị sắt ni na) ý nói mọi người nên mau chóng kiên quyết tu đạo.

GIẢNG: Câu này chính là đức Bồ Tát muốn khuyên người đời phải sớm tu đạo, không nên bỏ lỡ mất cơ hội hiếm có. Nếu người ta chân chính thật lòng tu trì thời sẽ có đức Kim Cương Bồ Tát tay cầm bảo đao vô cùng sắt bén đến trước bảo vệ. Khiến cho người tu đạo có thể hàng phục được hết mọi thứ ma quỷ làm hại. Cũng có người dụng công chưa được thâm hậu, tạp niệm nổi dậy, chỉ cần treo cao tuệ kiếm, thời mọi loài ma quỷ sẽ tự lẫn tránh. Vậy chữ tuệ nghĩa là gì? Duy Thức Luận có giải thích: Trong cảnh quan sát suy gẫm, phải lấy sự đơn giản chọn lựa làm tính, chặt đứt mọi sự hoài nghi là nghiệp. Như vậy có nghĩa là sự coi xem được hay mất đều không ở trong bối cảnh. Chỉ cần tìm tới chữ tuệ mà quyết định sự thủ đắc. Bảo kiếm được so sánh như tuệ kiếm, chính là có ý chỉ hết thảy mọi đặc tính vừa cứng vừa bén có thể chặt đứt hết thảy mọi thứ, không chút trì nghi. Tiếc thay, người đời chỉ biết bôn ba lao lực, mà không biết tấm nhục thân này tồn tại được ở thế gian là bao lâu. Nói thực ra, nhục thân còn tồn tại một ngày trên nhân thế, thời hết thảy những chuyện vợ con, của cải đều là những thứ gây ra biết bao nhiêu phiền não. Chỉ cần một ngày nào đó, hắt hơi thở cuối cùng là hết thảy đều trở thành số không.

51.

BA DẠ MA NA

Ba dạ ma na, chính là Bảo Kim Quang Luân Bồ Tát. Bạt chiết la chữ.

DỊCH: (Ba dạ ma na) chính là danh văn, danh xưng nghe mười phương, thích đọc ra sự hoan hỷ, thích sưng danh, dnah nghĩa đề thành tựu. Đó chính là hóa thân của Đức Bảo Kiếm Thủ Nhỡn Bồ Tát.

GIẢI: (Ba dạ ma na) là danh xưng rất hoan hỷ, lại có nghĩa là thành tựu.

GIẢNG: Câu này chính là chân ngôn của đức Bồ Tát muốn chúng sinh chọn lấy điều lành, khiến sớm nghe được chân ngôn vô thượng diệu đạo (không có đạo nào huyền diệu hơn). Vì thế đức Bồ Tát không ngần ngại gian khổ, luôn luôn Ngài hiển hóa. Một là để lời đại nguyện phổ độ mạt kiếp. hai là giúp người đời giải trừ được kiếp sinh tử luân hồi. Đó chính là chủ ý của đức Phật Tổ đại từ bi vô lượng. Vì thế Ngài thường khuyên mọi người nên có hỷ tướng, hy vọng thiện nam tín nữ khắp nơi sớm biết tu trì, để cùng vượt sang bờ bên kia.

52.

TA BÀ HA

Ta bà ha tức là đức Tam Đầu Thiện Thánh Già Phu Ngãi Long.

DỊCH: (Ta bà ha) có nghĩa là thành tựu, điềm lành, sự viên tịch, tiêu tai, tăng ích và vô trú (không ngừng); tất cả có sáu nghĩa.

GIẢI: (Ta) có nghĩa là bền vững, tĩnh mịch. (Bà) có điều hay điều quấy, không cách gì nói cho hết. (Ta bà ha) có nghĩa là hết thảy Pháp là bất sinh bất diệt, vốn rất tịch tĩnh, tự nó có tính Niết Bàn. Câu này thường dùng khi kết thúc lời chân ngôn.

GIẢNG: Đây chính là chân ngôn của đức Bồ Tát dạy rõ diệu pháp, đến chỗ diễn tả không thể hết. Người muốn dạy chúng ta nên thường xuyên trở về ánh sáng tịch quang. Đúng như Kim Cương đã dạy: “pháp thân không phải là tướng” câu này chính là để thuyết minh lời chú này. Điều gọi là sự tĩnh mịch của tịch quang chính là sự yên tĩnh và tịch mịch của chân lý. Còn chữ quang chính là ánh sáng soi rọi của chân trí. Lý và trí dung hoà viên mãn, trước sau đều nhất quán, như vậy sẽ thành công hoàn toàn. Kinh Pháp Hoa có nói: Đất của ta không bao giờ bị hủy hoạt, thường ở Linh Sơn, ngoài ánh sáng tịch quang, riêng có Ta Bà. Ta Bà có hai nghĩa: bền vững và nhẫn nại. Nếu giảng giải ra thời có nghĩa là vô nhân, lại có nghĩa là diệu hữu (có sự huyền diệu). Đó chính là ý gốc của chữ Ha. Chữ Diệu có ý là tồn tại, là có nguyên nhân. Trong cái không vô nhân (không có nhân) chính là cái cứu cánh dường như có nhưng không thể nói ra được. Khi tới lời kết của chân ngôn, phầnlớn đều dùng câu này. Nếu hết thảy đều được vào cõi Niết Bàn mà diệt độ thời Ta Bà thế giới đều hóa tàhnh một nước đầy hoa sen, trí tuệ cũng càng minh tịnh, mọi sự vi diệu đều được lưu hành. Nếu như không giữ được pháp tướng, thời gọi Ta bà ha. Ta bà ha cũng còn là Tô bà ha. Kinh Nhân Vương có nói: Ta bà ha có bí tàng vô trú Niết Bàn. Bao hàm năm nghĩa là: cứu cánh, viên mãn, kính giác, thành tựu, tán khứ.

53.

TẤT ĐÀ DẠ

Tất đà dạ, đó chính là Xá Lợi Phất Bồ Tát. Tay giữ ấn hoa sen cai quản hết thảy pháp môn.

DỊCH: (Tất đà dạ) có nghĩa là thành tựu, vi lành đến tức khắc, thành biện thành lợi, nói chung tất cả đều có nghĩa chữ THÀNH.

GIẢI: (Tất đà dạ) là nói đạo pháp vô biên, tất cả mọi chúng sinh ở trên thế gian này chỉ cần thoát khỏi vòng danh lợi, tất nhiên được thành tựu.

GIẢNG: Câu này tức chân ngôn của đức Phật Tổ hiện ra pháp tướng đẹp đẽ huyền diệu, lấy lòng bình đẳng mà cứu rỗi chúng sinh. Tiếc thay, người đời cứ chấp mê không tỉnh. Cứ lấy giả làm thực, chỉ biết tranh danh đoạt lợi, không đoái hoài đến tính mệnh, cứ thế đến chết mà thôi, thật là đáng trách. Danh lợi làm hai người ta còn hơn gươm đao. Gươm giết người nhưng còn có thể tránh né. Danh lợi giết người khiến người ta đến chết mà còn chưa hối tiếc. Còn người đối với hai con đường danh lợi mà không giải thoát nổi, nếu có ai chỉ rõ, khuyên tu đạo đừng tham danh lợi, sẽ bịt tai mà bò đi, rồi quay mặt lại mà chê là đồ gàn dở. Họ há chẳng biết tai hai do chạy theo danh lợi trên thế gian này vô cùng to lớn. Hãy nhìn vào lịch sử có biết bao vị hào phú đế vương..kết cục đã có mấy người đạt được kết quả mỹ mãn. Hầu hết đều lâm vào cảnh người mất, nhà tan, tai họa đến với chính họ. Vậy ta khuyên người đời càng mau chóng quay đầu gắng công tích lụy đức, nhất tâm tu trì để sớm viên thành Phật quả.

54.

TA BÀ HA

Ta bà ha ch1nh là hằng ha sa số Bồ Tát, đứng cao vút trên đầu cá ngao, pháp hải thật vô biên.

DỊCH: Nghĩa của chữ này giống đoạn văn trên.

GIẢI: Câu này là tiếp chữ Tát đà dạ của đoạn văn trên. Đại ý nói: kẻ tu đạo nếu có thể nhận thức được sự chân giả, việc thành đạo sẽ dễ dàng.

GIẢNG: Câu này chính là chân ngôn của đức Bồ Tát nói rõ sự quý báu của đại đạo. Tiếc thay, người đời cứ đôn dở cậy tài, tự cho mình thông minh, không tìm sự thực, không coi trọng bản chất, chỉ trọng hư văn, càng làm càng lắm điều giả dối, cho đến chết mà chưa tỉnh ngộ. Nay đức Phật Tổ mở lòng từ bi chỉ nẻo chúng ta cần phải sớm tỉnh ngộ, phát tâm tu đạo, tuyệt đối không nên tham luyến cảnh giả dối trong chốn hồng trần, khiến cho bỏ không được, coi không ra. Cũng không nên lấy cớ là đạo pháp sâu xa không dễ tu hành. Cổ nhân có câu: Người quân tử tu cái gì ở trong ta; ta đây có ý nghĩa là chân ngã, không phải là giả ngã. Mong tất cả đều từ pháp chân tâm, trực tâm làm cho đạo được tinh tiến, ngõ hầu không phụ lòng từ bi của Phật Tổ.

55.

MA HA TẤT ĐÀ DẠ

Ma ha tất đà dạ, đó chính là đức Phong Quang Bồ Tát, tay cầm phướng đỏ.

DỊCH: (Ma ha tất đà dạ) mọi loài khắp nơi đều thành tựu. Cùng với câu (tất đà dạ) là hóa thân của đức Bảo Kinh Thủ Nhỡn Bồ Tát.

GIẢI: (Ma ha tất đà dạ) có ý nói Phật pháp quảng đại nếu chịu tu trì, đều có thể lên cõi Phật.

GIẢNG: Câu này chính là chân ngôn của đức Phật, Ngài đại phóng ánh sáng, lấy lòng từ bi vô lượng, khiến hết thảy mọi loài chúng sinh trên thế gian này đều được hóa độ vào cảnh bất sinh bất diệt. Chúng ta nên tảo trừ hết mọi tạp niệm xấu xa, giữ cho lòng được trống trãi mà tu trì, không nên tự ý bạo hành, bỏ dỡ. Nếu như chẳng biết tự thương tự tiếc, chẳng sinh lòng tin chỉ lo hưởng thụ những phúc lộc tầm thường, ăn no ngủ kỹ, như vậy chẳng khác gì cây gỗ mục, bỏ phí tháng năm, uổng mạng cái tiếng coi người thiêng hơn muôn vật.

56.

TA BÀ HA

Ta bà ha chính là đức Mục Kiền Liên Bồ Tát.

DỊCH: Nghĩa giống như lời chú thích kể trên.

GIẢNG: Câu này chính là chân ngôn của đức Bồ Tát, mở lòng từ bi cứu độ loài người, có sự cảm ứng không lường, đó là lời chỉ điểm cho chúng sinh chớ đi lầm đường, mau chóng tu đạo, tìm đường giác ngộ, khiến cho lục đạo tứ sinh đều được giải thoát, tránh khỏi được ba con đường khổ não. Công đức của đức Phật Tổ thật là vô lượng vô biên. Nói chúng, tất cả những kẻ hữu tình trong cõi trời đất, đều nên mau chóng tỉnh ngộ, thể theo tấm lòng tế thế của đức Bồ Tát sớm tu trì, rửa sạch thân tâm.

57.

TẤT ĐÀ DU NGHỆ

Tất đà du nghệ chính là Chư Thiên Bồ Tát tận tất dĩ tập, tay cầm kim đao.

DỊCH: (Tất đà) là lợi ích được thành tựu. (Du nghệ) tứ là vô vi hư không. Trọn câu có nghĩa là chư thiên thần, địa kỳ đều được thành tựu vô vi hư không.

GIẢI: (Tất đà du nghệ) là nói Phật pháp quảng đại vô biên, làm lợi cho các vị thiên thần, địa kỳ, tất cả đều được ân trạch.

GIẢNG: Khi đức Bồ Tát đọc bản chú này, chư thiên pháp thường hiện ra, hóa ra chư thiên thần kỳ cùng thánh vô thượng diệu đạo.

58.

THẤT BÀN RA DA

Thất bàn ra da chính là đức A Di Đà Phật và đức Quán Thế Âm Bồ Tát An Tức Hương.

DỊCH: (Thất bàn ra da) có nghĩa là sự tự tại.

GIẢI: (Thất bàn ra da) là nói chư thiên thần nữ đều có thể thành diệu đạo.

GIẢNG: Câu này là để tiếp ý câu trước. Ý chính là trong bản chú này đức Bồ Tát hiện ra vị Thần Nữ Tướng, và tiếp cận với các vị chư thiên thần nữ để tiện việc độ hóa. Thần Nữ chính là những người trinh hiếu liệt nữ ở chốn nhân gian mà thành. Tiếc thay, khi ở trên thế gian chưa được nghe chính pháp cho nên chưa thoát ly được vòng sinh tử. Vì thế đức Phật Tổ mở lòng từ bi, đặc biệt nói rõ diệu pháp cho các vị thần nữ được biết để sớm tu đạo và hoàn thành Phật quả. Những người con gái khi ở nhà tỏ ra hiếu thuận với cha mẹ, kính trọng cha mẹ chồng, thương yêu con cháu, hòa thuận với xóm làng, suốt ngày giữ gìn chân tâm, không xa lìa một chút, không giữ trong lòng một chút tạp niệm, như vậy sẽ được các đấng thần minh gia hộ.

59.

TA BÀ HA

Ta bà ha, đó chính là đức A Đổ Na Bồ Tát Cao Kình Vu Bát (giơ cao chậu bát)

DỊCH: Liên hệ với ý của câu trên có ý là vô vi pháp tính tự tại thành tựu. Đó chính là hóa thân của đức Bảo Khiếp Thủ Nhỡn Bồ Tát.

GIẢI: Câu này tiếp theo ý câu trên, chủ yếu là xiển dương đạo pháp hoằng đại, đạo quả càng được cao thâm, cầm lấy đức làm cơ sở. Vì lẽ không có đức thời khó thành đạo.

GIẢNG: Câu này chính là chân ngôn của đức Bồ Tát, Ngài muốn tuyên dương đạo pháp vô biên, phân thân để hiển thị, chuyên chú thành tựu cho tất cả những kẻ hữu tình trong ba giới mười phương đều được chứng Phật quả. Nói chung những kẻ học đạo, đều phải coi trời đất cũng như vạn vật đều hiện hữu như chính lòng của mình. Đồng thời cũng coi trọng hoài vọng của các vị thành hiền, Phật Tổ phổ độ chúng sinh cũng như niềm khát vọng của lòng mình. Đem hết sở trường của mình mà bố thí khắp nơi.

60.

NA RA CẨN TRÌ

Na ra cẩn trì chính là bản thân của đức Hải Huệ Bồ Tát, tay cầm kiếm vàng.

DỊCH: (Na ra cẩn trì) nghĩa là hiền ái thành tựu.

GIẢI: (Na ra cẩn trì) có nghĩa là vô lượng từ bi hiền ái thiện hộ, cũng tương tự như lời dịch ở trên về Na Ra Cẩn Trì. Câu này chính là chân ngôn chuyên dạy về phép mầu nhiệm của Đại Thừa, và có tác dụng ngăn ngừa các bậc hiền giả đi lầm vào phái Tiểu Thừa.

GIẢNG: Khi đức Bồ Tát nói về bản chú này, Ngài hiện ra pháp tướng vô lượng Bồ Tát, chuyên môn giáo hóa những người theo phái Tiểu Thừa, khiến họ mau mau cùng theo phái Đại Thừa để có thể thành tựu được Phật quả.

61.

TA BÀ HA

Đó chính là đức Nhiễm Đà Bồ Tát, gậy để ngang trên vai có móc chiếc nón.

GIẢI: Bài chú này là tiếp theo lời văn trên dặn dò việc tái độ chúng sinh. Dụng ý là sợ chúng ta đi lầm vào bàng môn tả đạo.

GIẢNG: Câu này là nói về lòng từ bi của đức Bồ Tát, đinh ninh chứng quả cho phái Tiểu Thừa, và khuyên họ sớm giác ngộ, không nên giữ thành kiến, theo pháp Đại Thừa để viên thành Phật quả. Nếu biết rõ chư Phật vì mối đạo nhân duyên mà xuất hiện ở trần thế, thời không thể theo phái Tiểu Thừa mà tế độ chúng sinh. Chúng ta cần phải đề cao cảnh giác, cầu cứu những bậc cao minh, phải đi theo phái Đại Thừa mới đúng.

62.

MA RA NA RA

Ma ra na ra chính là đức Bảo An Vương Bồ Tát.

DỊCH: (Ma ra) có nghĩa là Như ý. (Na ra) là tôn thượng. Trọn câu có nghĩa tu đạo như ý không có gì vững chắc bằng.

GIẢI: (Ma ra) có nghĩa là lúc tu đạo là sự như ý phi thường. (Na ra) có nghĩa là sau khi thành đạo quả tức là được kiên cố phi thường.

GIẢNG: Câu này có nghĩa là bất luận chư vị thần kỳ trong trời đất, cho nên hết thảy mọi loài chúng sinh, khi đã tu đạo, đều có thể theo như ý muốn nhận được Kim Cương Phật thể mãi mãi bền vững không bao giờ hủy hoại.

63.

TA BÀ HA

Ta bà ha chính là đức Câu Hy La Bồ Tát, là tiếng động khi Ngài đi dép cỏ đạp sóng vượt
bể.

GIẢI: Câu này tiếp ý của bài văn trên, khuyên mọi người nên nhận rõ đại đạo hết sức chân chính, đó chính là nghĩa lý dặn dò phải bảo hộ kẻ lành và niệm điều lành.

GIẢNG: Câu này chính là chân ngôn của đức Bồ Tát, mong mỏi người tu đạo, phải mở rộng và làm sáng tỏ những sự huyền bí của đại đạo. Đại đạo không có gì khác là trọng ở sự tự giác ngộ, không giả dối cầu ở bên ngoài, phép dụng công không ngoài phép hồi quang phản chiếu làm sao cho bản tính được sáng tỏ chỉ mong những người thực lòng học đạo, bền chí không ngại sự quấy nhiễu phiền hà, chân đạp nơi đất chắc với tinh thần dũng cảm tiến về phía trước. Còn như việc làm nhằm tế nhân lợi vật, hết thảy là những việc có tính hai mặt trong và ngoài, trước sau như một, không có gì lại không thành Phật quả.


64.

TẤT RA TĂNG A MỤC KHƯ GIA

Tất ra tăng a mục khư gia, chính là bản thân của đức Dược Vương Bồ Tát trị liệu các chứng bệnh.

DỊCH: (Tất ra tăng) có nghĩa là yêu mến giữ gìn. (A mục khư gia) có nghĩa là bất không bất xả, không có cái gì, không bỏ cái gì, thương yêu chúng sinh. Đây là hóa thân của đức Việt Phủ Thủ Nhãn Bồ Tát.

GIẢI: (A mục khư gia) có nghĩa là lòng từ bi bọc thuốc để chữa bệnh,có thể trừ hết khổ não cho chúng sinh.

GIẢNG: Khi đức Bồ Tát đọc bản chú này, không nỡ nhìn thấy chúng sinh trong thế giới chịu bao khổ não, vì thế Ngài đặc biệt hiện ra tướng Đại Vương Bồ Tát, để trị liệu mọi bệnh ôn dịch, khiến cho chúng sinh được hưởng sự an lạc. Vậy xét cho cùng bệnh tật của chúng sinh do đâu mà phát khởi? Xét các sách y học, người ta sỡ dĩ mắc bệnh đều do sự vọng tưởng mà ra. Trong lòng đã mang nhiều phiền não, cang khí không được sung mãn, vì thế mà tóc khô, gan yếu truyền khắp ngũ tạng và đi tới cõi chết. Khi các vọng tưởng manh động thời tức mọi bệnh tật phát sinh. Vì thế những bậc danh y trị thân bệnh, không bằng các bậc Thánh trị tâm bệnh, dạy người ta nên bỏ hết sự phiền não. Vì thế đức Phật Tổ khi chữa trị mọi bệnh cũng luôn luôn dạy người ta xét lại lòng mình, khi biết rõ những điều tâm không thể làm được, thời tự nhiên bệnh sẽ hết.

65.

TA BÀ HA

Ta bà ha chính là đức viên mãn Bồ Tát độc thân trứ chu mẫu đà la thủ.

GIẢI: Câu này chính là tiếp theo lời chân ngôn của đoạn văn trên. Nói về con người nên coi tâm bệnh là một mối lo. Duy đạo là có ta điều trị.

GIẢNG: Câu này chủ yếu nói về đức Bồ Tát thấy rõ nguyên nhân bệnh hoạn của người đời, hết thảy đều do cái nghiệp vô minh mà ra. Tức là bệnh can phát xuất từ thất tình lục dục, khi bị ngoại tà xâm nhập, sẽ phát sinh ra biết bao nhiêu đau đớn, và nhiều khi trở nên những chứng bất trị. Vì thế, ngài phát lòng đại từ bi để giúp đời mong người đời thấy rõ sắc thân mà tu hành. Đức Phật Tổ dạy người ta hãy nhìn vào sự hư không mà tu đạo. Đó chính là thứ thuốc chữa tâm bệnh vô cùng hiệu nghiệm. Nếu có kẻ nào mắc tâm bệnh, nếu không sớm chữa trị, thời căn bệnh sẽ vĩnh viễn không bao giờ khỏi. Nếu muốn biết đạo tu tâm là cao hơn hết, thời sự thấy rõ bản tính được coi như đứng đầu.

66.

TA BÀ MA HA A TẤT ĐÀ DẠ

Ta bà ma ha a tất đà dạ, đó chính là bản thân của Đức Dược Vương Bồ Tát trị liệu bệnh hoạn.

DỊCH: (Ta bà) có nghĩa là cần phải nhẫn nại, nhịn nhục, nói được và đến được. (Ma ha) chính là phép Đại Thừa. (A tất đà dạ) là thành tựu vô lượng. Trọn câu có nghĩa: Nếu chịu khó nhẫn nại là có thể tiến tới Đại Thừa Pháp, sẽ được thành tựu vô lượng, và được Phật quả báo đáp.

GIẢI: (Ta bà ma ha) ý nói tất cả các loài chúng sinh ở trên thế gian đều được bình đẳng và đều có thể thủ đắc phép đại tổng trì. (A tất đà dạ) có nghĩa là vô lượng thành, hết thảy chúng sinh đều hưởng an lạc.

GIẢNG: Câu này nói về lòng từ bi của đức Phật thật vô cùng, Ngài thương xót hết thảy mọi loài vật, đặc biệt hiện tùy loại tướng mà hóa đạo các loại chúng sinh, để đều thành tựu đạo pháp nhiệm mầu. Tùy loại có nghĩa là khi thấy một loài vật nào, thời cũng hóa ra loài đó mà cảm hóa.





67.

TA BÀ HA

Đó chính là đức Xá Lợi Phất Bồ Tát, lưng đeo chân kinh ngọc trần phong.

DỊCH: (Ta bà ha) hiệp với ý câu trên chính là cứu cánh đến bờ bên kia - Đại Thừa Pháp – chúng sinh tất cả sẽ được thành tựu. Đó chính là hóa thân của đức Bồ Đào Thủ Nhỡn Bồ Tát.

GIẢI: Câu này tiếp theo ý câu trên là lời chân ngôn dặn dò phải đổi mới. Có nghĩa là đại đạo đều coi tứ sinh là bình đẳng. Tất cả đều có thể thành tựu và giải thoát khỏi kiếp sinh tử.

GIẢNG: Câu này chính là câu chân ngôn của đức Phật Tổ, Ngài tỏ lòng từ bi vô lượng thương xót các loại chúng sinh lục đạo tứ đẳng. Đức Phật Tổ đại thí Phật Pháp, phổ độ chúng sinh chủ yếu là Ngài mong mỏi tất cả những kẻ hữu tình trên thế gian này, không nên giết hại súc vật và nên phóng sinh. Chúng ta là những chúng sinh từ kiếp vô thuỷ cho đến nay, vật và ta không có sự ngăn cách, trời và người là một thể. Cái thân xác tuy không giống nhau, nhưng cái lòng yêu sống sợ chết cũng chỉ là một. Vậy muốn bào toàn sinh mệnh của mình, thời trước hết phải thương xót cái sinh mệnh của người và vật. Đồng thời phải tránh sát sinh và tìm cách phóng sinh. Lấy lòng hiếu sinh của trời làm lòng hiếu sinh của mình. Làm được như vậy tất nhiên sẽ thành đạo trở về làng, và chứng được Phật quả vô cùng thanh tịnh.

68.

GIẢ KIẾT RA A TẤT ĐÀ DẠ

Giả kiết ra a tất đà dạ chính là bản thân của đức Hổ Tràm Thần Tướng, tay cầm búa.

DỊCH: (Giả kiết ra) có nghĩa là Kim Cương luôn hàng phục oán ma. (A tất đà dạ) có nghĩa là thành tựu không gì so sánh được. Trọn câu có nghĩa là: Lấy Kim Cương Pháp Luân để hàng phục oán ma và được sự thành tựu không gì so sánh được.

GIẢI: (Giả kiết ra) có nghĩa là có thể hàng phục được hết thảy mọi thứ thiên ma ngoại đạo, cho đến mọi loài ác quỷ. (A tất đà dạ) có nghĩa là hết thảy mọi thứ ma chướng đều có thể tiêu hóa vô hình mà được thành tựu.

GIẢNG: đây chính là chân ngôn của đức Bồ Tát, Ngài đã ra ơn khắp nơi, và hiện sắc thân tam muội, tập hợp hết thảy mọi loài chúng sinh và đều được thấm nhuần ơn nhà Phật tất cả đều được hưởng ánh sáng tự tại. Vì lẽ đó mà hết thảy thứ ma chướng đều bị tiêu diệt. Mọi thứ ma chướng do tâm tạo, tâm sinh, thời tất cả các loại ma quỷ theo đó mà sinh ra. Nếu tâm diệt thời tất cả cũng diệt theo. Đại đế, phần lớn những người tu đạo đều gặp ma chướng, và đều do tâm không được định mà sinh ra, và sự nhận thức về lý không được sáng suốt. Vì đó, đức Phật Tổ đại phát lòng từ bi, dạy mọi người giữ lòng cho thanh tịnh, không vướng mắc một tướng và tiến thẳng lên cõi giác.

69.

TA BÀ HA

Đó chính là chư Thiên Ma Vương, tay giơ xà thương.

GIẢI: Câu này kết hợp với đoạn văn trên có nghĩa là hết thảy chúng sinh đều có thể thành tựu đạo thanh tịnh vô thượng. Nhờ đó mà không thể tái tạo mọi thứ ác nghiệp.

GIẢNG: Câu này là đức Bồ Tát có ý xiển dương đại đạo. Những người tu đạo, không những có thể tiêu tan được hết mọi tội nghiệp và mọi ma chướng, lại có thể thành tựu được Phật quả.

70.

BA ĐÀ MA KIẾT TẤT ĐÀ DẠ

Bà đà ma kiết tất đà dạ chính là đức Linh Hương Bồ Tát, tay bưng lò Như Ý.

DỊCH: (Ba đà) là hoa sen đỏ. (Ma kiết) là thiện thắng. (Tất đà dạ) là hết thảy đều thành tựu. Đó chính là hóa thân của đức Hồng Liên Hoa Thủ Nhỡn Bồ Tát.

GIẢI: (Ba đà na kiết) ý nói Phật Pháp vô biên, phải sớm tu trì để được hưởng an lạc. (Tất đà dạ) là dẫn độ người tu đạo nên trau dồi đầy đủ trí thức, để được giải thoát trọn vẹn, xa lánh mọi khổ não.

GIẢNG: Câu này chính là chân ngôn của đức Bồ Tát, Ngài ngồi ở Bảo Tọa Sen phóng ra ánh hào quang, để trao cho mọi người ghi nhận. Công dụng của bài chú này hết sức rộng lớn, không gì sánh được.

71.

TA BÀ HA

Ta bà ha chính là Tán Hoa Thiên Bồ Tát thiên diệp bảo liên (sen báu có nghìn lá).

GIẢI: Kết hợp ý câu này với đoạn văn trên nghĩa là: Người tu đạo không để bị ràng buộc bởi bờ cõi ranh giới, đều phải đưa vào sự tỉnh sát cõi lòng, biết thẹn thùng xấu hổ.

GIẢNG: Câu này là đức Bồ Tát muốn nói thành đạo là do ở mình, và thành là nhờ ở sự tỉnh sát. Trong suốt mười hai giờ, cần phải tự lòng mình tham cứu, tùy theo cơ duyên mà giữ gìn, không cho vọng niệm vọng khởi lâu ngày đạo sẽ thành.

72.

NA RA CẨN TRÌ BÀN ĐÀ RA DẠ

Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ chính là đức Phú Lâu Na Bồ Tát, tay bưng chậu.

DỊCH: (Na ra cẩn trì) là giữ sự hiền thủ. (Bà đà ra dạ) là Thánh Tôn Quán Tự Tại. Đó chính là hóa thân của đức Thí Vô Úy Thủ Nhỡn Bồ Tát.

GIẢI: (Na ra cẩn trì) có nghĩa là kẻ hiền thì yêu thương, kẻ lành thời gìn giữ. (Bà đà ra dạ) có nghĩa là chỉ có đức Duy Ngã Quang Vương Quán Tự Tại thường ra tay vô úy, trừ khử hết thảy mọi sự sợ hãi, khiến mọi sự được yên ổn.

GIẢNG: Câu này chính là chân ngôn của đức Bồ Tát, Ngài tỏ lòng từ bi yêu mến giữ gìn đại diện pháp thân đại thiên thế giới, để hóa giải hết thảy mọi chúng sinh trên thế giới, khuyên chúng sinh nên khẩn cấp tu đạo diệu mầu, để thoát khỏi mọi sự khổ não đau thương. Người đời khi ở trong tình trạng sợ hãi lo âu, thường hay lấy giả làm thực, bị thanh sắc của cải, phú quý công danh lôi cuốn xâm phạm, và không có cách nào rút chân ra được. Nếu kẻ nào dành hết tai mắt tâm tư để tính toán cho việc vợ con, tài lộc, thời cứ theo đuổi đến trọn đời. Giả thử nếu được nhà cửa đẹp đẽ, nhiều ruộng nhiều vườn, thời lòng tham vẫn thấy chưa đủ. Khi đã được quý hiển, có tiếng tăm, nhưng lòng hiếu danh vẫn chưa cho là đủ. Cũng vì thế mà trong lòng không được một chút thanh nhàn, và tâm thần cũng không được một ngày yên ổn. Nếu lại còn khư khư giữ nhiều vọng tưởng, thời mọi điều đưa tới ngoài ý mong muốn. Vì lẽ đó, đức Phật Tổ mở lòng từ bi dạy bảo chúng ta không nên quên bản tướng. Tướng của ta đã không có, thân tâm tự nhiên được an thái. Việc thành tựu đại đạo vô thượng đệ nhất sẽ không phải là chuyện khó khăn.

73.

TA BÀ HA

Ta bà ha chính là đức Đà La Ni Tử Bồ Tát, tay bưng quả.

GIẢI: Câu này kết hợp với câu trên có nghĩa là: kẻ tu đạo cần phải chính tâm thành ý làm chủ.

GIẢNG: Câu này chính là chân ngôn của đức Bồ Tát, tiếp theo ý câu trên. Đại ý nói: Sở dĩ con người gặp nhiều lo âu sợ hãi, đều là do mọi sự suy nghĩ không được trong sạch, rồi từ đó phát sinh ra biết bao nhiêu sự việc không được an lành. Vì nền tảng của việc tu đạo, thành được là nhờ ở ý niệm. Tiếc thay, người đời không rõ được bản tính, mà chỉ tìm tòi ở những dấu vết, hiện tượng bên ngoài, đến nỗi đi lầm vào đường bàng môn tả đạo thực là đáng thương, đáng xót.

74.

MA BÀ RỊ THẮNG KIẾT RA DẠ

Mạ bà rị thắng kiết ra dạ là đức Tam Ma Thiền La Bồ Tát Già Phu Luân Chưởng Bảo Đăng.

DỊCH: (Ma bà rị thắng) có nghĩa là bậc đại dũng, anh hùng. (Kiết ra dạ) là sinh tính, bản tính. Trọn câu có nghĩa là nếu quy về cái tính gốc là đại dũng, thời việc tu hành có thể thành tựu. Câu này chính là tóm tắt ý của câu trên, đó chính là hóa thân của Thiên Tý Thủ Nhãn Thiên Thủ Thiên Nhãn Bồ Tát.

GIẢI: (Ma bà rị thắng kiết ra dạ) có ý nói: Hết thảy mọi công đức đều thành ở trong tính từ bi. Như vậy, nếu còn giữ lòng độc hại, thời không có cách nào để trở thành chính đáng chính giác.

GIẢNG: Câu này chính là lòng từ bi của đức Bồ Tát, hiện ra pháp tướng Thiên Thủ Thiên Nhãn, soi sáng hết mọi pháp giới. Chúng ta đã thuộc về nhân loại, nếu không chính tâm tu thân để tự vươn lên, thời phụ lòng từ bi của Phật Tổ. Vì thế, phải cất đầu lên, ngữa trông ơn từ bi của Phật Tổ dẫn đường. Giả như sống trong cảnh trần hoàn, mà lòng không động, thân không dời đổi, bên ngoài không dối trá mọi người, bên trong không tự dối mình.

75.

TA BÀ HA

Ta bà ha chính là đức Đại Ca Diếp Bồ Tát tay cầm niệm châu.

GIẢI: Câu này là tổng kết đoạn văn trên. Đại ý là tóm tắt trọn vẹn toàn văn bài Đại Bi Chú.

GIẢNG: Câu này chính là chân ngôn của Bồ Tát mở lòng từ bi phổ độ tất cả chúng sinh trong đại thiên thế giới gồm tứ sinh lục đạo tất cả đều được tốt lành lợi lộc.

76.

NAM MÔ HẮC RA ĐÁT NA, ĐÁ RA DẠ DA

Nam mô hắc ra đát na, đá ra dạ da chính là bản thân đức Hư Không Bồ Tát nơi trên phiến đá hái hoa.

GIẢI: Dụng ý của đức Bồ Tát nhắc lại câu này chính là Ngài muốn nói rõ trong việc tu đạo có con đường tắt, hy vọng người đời không đi lầm đường, và sớm nhận được sự thực của đạo pháp.

GIẢNG: Đức Bồ Tát đã đinh ninh dặn dò ba điểm: người đọc bản chú này cần phải hết sức hàng phục thân tâm, khiến cho lòng không bị buông thả, đồng thời phải chú tâm thiền định, tham ngộ việc lớn sinh tử, quan sát mọi người trên thế gian. Khi đã quy y Phật Pháp thời không thể làm hại Chân Như, chẳng hạn như chỉ lo ăn chay niệm Phật, thật rất đáng thương. Không vậy, cũng ngồi hai đùi co lại, trong đầu trống rỗng rồi cứ cho như vậy là tu hành.

77.

NAM MÔ A LỊ DA

Nam mô a lị da, đó chính là hương tượng (tượng thơm) của đức Phổ Hiền Bồ Tát đang ngồi thiền tọa Bát Bảo.

DỊCH: (A lị) có nghĩa là bực Thánh. (Da) là lễ. Trọn câu có nghĩa là quy mệnh và quy lễ lên bậc Thánh giả.

GIẢI: Câu này chủ ý nói lên việc coi trọng sự tu đạo cần quên hẳn cái tướng của ta, có vậy mọi ý niệm xấu xa mới không nảy sinh.

GIẢNG: Câu này chính là đức Bồ Tát muốn dẫn độ lại những người tu hành nên sớm trì tụng bài chú, chợt nhiên tỉnh ngộ, sửa lỗi và đổi mới. Cần thẩm cầu Phật Pháp, cần phải sửa trị tâm bệnh, trừ hết vọng tưởng. Nếu như niệm lúc nào thời tập trung tư tưởng lúc ấy, mặc kệ mọi sự động tĩnh bên ngoài không phân tâm tư tưởng. Như vậy có thể hẹn ngày thành đạo. Đức Phật Tổ xiển dương Phật Pháp, triệt để từ trước đến sau. Dùng chữ không mà dạy bảo mọi người, làm sao cho thông đạt vô ngã. Các học giả nếu có thể tu hành và tiến tới cực điểm, tự nhiên vạn tượng đều là không, khi tĩnh đến mức vô ngã, khi động thời vô thường. Như vậy, mọi tà niệm sẽ không phát khởi và được cùng một thể với Phật Tổ.

78.

BÀ LÔ KIẾT ĐẾ

Bà lô kiết đế chính là đức Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đang chỉ một ngón tay lên trời.

DỊCH: (Bà lô kiết đê) có nghĩa là quan, quang, tức là mọi sự quan sát.

GIẢI: (Bà lô kiết đế) có nghĩa là đạo pháp huyền diệu vô cùng, nếu tu được, thời từ chỗ thanh tịnh có thể tới nơi cực lạc.

GIẢNG: Câu này chính là chân ngôn của đức Bồ Tát diễn tả sự cao thâm của đại đạo. Lẽ tự nhiên, có sinh tất có tử, có thành tất có bại. Nhưng hầu hết người đời sợ chết mà ham sống, kết quả là: Sợ chết cũng không tránh khỏi cái chết. Vì vậy muốn được trường sinh, thời phải tìm cái sống trong cái chết. Như vậy có nghĩa là tự mình trước hết phải làm cái công việc làm sống người đã chết, đem mọi điều dục niệm làm chết nó đi, có vậy mới mong được toại nguyện. Thí dụ: Có người không giữ được điều trung hiếu tiết nghĩa. Người đó giống như người đang sống ở trong nhân gian, nhưng thực sự họ đã chết rồi. Vì lẽ đó, mặc dù tuổi thọ chưa hết, nhưng kẻ sống đã không còn nữa.

79.

THƯỚC BÀN RA DẠ

Thước bàn ra dạ chính là đức Quán Thế Âm Bồ Tát giải nhãn căn thiên diệp kim liên.

DỊCH: (Thước bàn ra) có nghĩa là Tự Tại. (Dạ) là lễ. Trọn câu có nghĩa như trên.

GIẢI: (Thước bàn ra dạ) có nghĩa là người tu đạo muốn thành pháp thân thanh tịnh, cần phải tảo trừ nhỡn căn mới có thể xuất hiện vô thường diệu cảnh.

GIẢNG: Câu này là chân ngôn của đức Bồ Tát chỉ rõ chân truyền của đại đạo, hẹn cho người tu đạo có đường tắt để đi, không đến nỗi lầm đường lạc lối. Như vậy có nghĩa là người tu đạo phải đóng chặt sáu cửa, diệt trừ nhỡn căn, để tránh điều sắc lụy. Mắt chính là con dao ngăn trở con đường và đạo. Do đó, muốn tìm đường sống, trước hết phải trừ diệt nhỡn căn.

80.

TA BÀ HA

Ta bà ha chính là đức Quán Thế Âm Bồ Tát lắng tai phân biệt tiếng vàng rơi trên cánh
tay.

GIẢI: Câu này kết hợp với ý của câu trên có nghĩa là: Giả thử nhỡn căn đã trừ, nhưng nhĩ căn cũng là một vật chướng ngại, cũng cần phải được tảo trừ. Có vậy, về sau mới đạt tới diệu cảnh vô thường.

GIẢNG: Câu này có nghĩa là thanh tịnh nhỡn căn là một việc hết sức khẩn yếu, nhưng nhĩ căn cũng không nên coi thường. Vì lẽ nhĩ căn không được thanh tịnh thời không có cách nào để nghe được pháp và chứng được đạo. Chúng ta cần phải làm cho nhĩ căn được thanh tịnh, khiến cho tâm không bị thanh chi phối mà buông thả ra ngoài. Nhớ lại: Trình Từ là bậc nho gia nổi tiếng đời Tống, thường làm bài châm, lưu ý có bốn điều không được làm (tứ vật) Ông nói: Người ta giữ được đạo, thường chính là nhờ ở thiên tính, nếu phạm vào tứ vật (ưa tìm biết, ưa vật chất, ưa dẫn dụ, bị biến chất). Như vậy sẽ mất hết sự chân chính. Vì thế những kẻ tu đạo, luôn luôn phải ngăn chặn mọi tà niệm, chỉ giữ lại một tấm lòng thành, luôn luôn xét lại lòng mình và nghe kỹ tiếng nói lòng mình, đừng để cho đi ngược lại với sự tự nhiên. Như vậy, những điều tứ đại ngũ uẩn sẽ không cần phải đợi thanh tịnh mà chính tự nó sẽ thanh tịnh, không cần nó không, mà tự nó sẽ không, có vậy mới tìm thấy cái diệu thể của chân không. Sở dĩ cần phải nghe lại lòng mình, vì thận môn khiếu ở nơi TAI. Và điểm này, so với nghĩa thực của Phật Pháp hơi có chút đặc biệt, nhưng như trên đã giải thích rõ tất cả sự lợi hại của nhĩ căn. Đó là điều cần phải tham khảo kỹ lưỡng.

81.

ÁN TẤT ĐIỆN ĐÔ

Án tất điện đô, đó chính là đức Quán Thế Âm Bồ Tát đang xòe để giải mọi mùi vị thuộc mũi. (ngũ luân chỉ tức là ngón tay ngũ luân).

DỊCH: (Án) có nghĩa là dẫn sinh. (Tất điện đô) có nghĩa là thành tựu ngã giới.

GIẢI: (Án) là mọi chú mẫu. (Tất điện đô) là then chốt của sự tu đạo. Ý nói việc tu đạo cần phải tảo trừ tỵ căn, mới được thanh tịnh.

GIẢNG: Câu này chính là đức Bồ Tát đã kết hợp đoạn văn trên mà giải thích: Ý nói những kẻ tu đạo trước hết phải bình tâm định khí, khiến cho việc hô hấp được điều hòa, từ chỗ thô sơ đến chỗ tinh tế và tiến tới chỗ KHÔNG.

82.

MẠN ĐÀ RA

Mạn đà ra chính là đức Quán Thế Âm Bồ Tát, đưa lưỡi tay cầm quyết Đâu La Miên Thủ (Đâu La Miên là một loại cây có sợi bông. Đây ghi là Đâu La Cẩm, chữ cẩm và chữ miên tương tự. có lẽ in sai).

DỊCH: (Mạn đà ra) có nghĩa là đạo trường pháp hội.

GIẢI: (Mạn đà ra) có ý khuyên người tu đạo nên giải trừ thiệt căn, mới có thể tiến tới sự thanh tịnh tự nhiên.

GIẢNG: Câu này là chú ngữ tiếp theo đoạn văn trên, chủ yếu là tham chiếu tâm kinh.

83.

BẠT ĐÀ DẠ

Bạt đà dạ, chính là đức quan thế âm bồ tát đang giải mọi xúc giác tiếp nhận tâm căn ở trong người.

DỊCH: (Bạt đà dạ) là tùy tâm viên mãn.

GIẢI: (Bạt đà dạ) ý nói là thân ta chính là nguồn gốc của sự khổ não, phải xé rách lớp da ở ngoài mới có thể thành đạo.

GIẢNG: Câu này chính là lòng từ bi của đức Bồ Tát, là lời chân ngôn của Ngài chỉ thị cho toàn thể chúng sinh trên mặt đất phải mau mau thoát khỏi đường mê. Thân chỉ là ảo hình, chỉ là sự kết hơp của bốn nhân tố là đất, nước, gió, lửa, mảy may không phải là một thực thể để tìm tới. Tiếc thay mọi người không hiểu, cứ tạo nên nhiều ác nghiệp, trăm mưu ngàn kế làm mê muội cõi lòng, đến nỗi không còn cách nào siêu thoát được. Đó cũng là cái bệnh chung của mọi người. Những người học đạo phải lưu tâm cảnh giác.

84.

TA BÀ HA

Ta bà ha chính là mọi phép tắc của đức Quan Thế Âm phân biệt giải ý căn.

DỊCH: (Ta bà ha) có ý nghĩa là hoàn tất, kết thúc, tức là hết thảy đã nói cả rồi.

GIẢI: Câu này chủ yếu dạy người luôn luôn tụng niệm.

GIẢNG: Ý câu nay muốn nói: nếu người tu đạo chỉ giữ được thanh tịnh về MẮT, TAI, MŨI, LƯỠI, THÂN, mà không giữ ý căn được thanh tịnh, tất nhiên khó mà vượt qua bờ bên kia. Như Bản Kê Thất Phật Thông Giới có nói: Mọi điều ác không làm, mọi điều thiện đều thi hành, tự làm cho trong sạch ý, đó chính là Phật giáo, đó chính là đạo lý. Tĩnh là do chính tự nơi tâm phát khởi, vì thế bắt đầu là THÀNH và kết cục là CHÂN.

---o0o---

Mục Lục 1 2 3 4 5
---o0o---

Vi tính: Tâm Như , Tường Tâm
Cập nhật: 1-10-2008
Webmaster:quangduc@quangduc.com
Thư Mục Kinh Điển 2 - 1
Đầu trang

Biên tập nội dung: Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng

0 comments:

Post a Comment