Bài này CN nhận được từ email,đọc thấy cảm động qúa nên đăng lên đây ......
>
>
> Phan Nhật Nam
>
>
> Năm em lên ba, bố tôi bỏ lại người vợ trẻ và hai đứa con thơ lên đường tập
kết.
>
> Tôi hơn em sáu tuổi. Chín tuổi con nhà
nghèo khôn lắm, tôi đủ khôn để thấy khuôn mặt mẹ buồn hiu hắt, những
tiếng thở dài và những giọt nước mắt âm thầm của mẹ trong đêm. Chín
tuổi, tôi đã biết mình là người nam độc nhất trong gia đình, đã biết ẩm
bồng đút cơm cho em và vỗ về em mỗi khi em khóc. Chín tuổi, tôi đã biết
tắm rửa, thay áo thay quần cho em, cõng em đi chơi và dỗ cho em ngủ. Mỗi
ngày, trời sập tối mẹ mới gánh hàng về, ba mẹ con ngồi ăn cơm bên ngọn
đèn dầu, tôi và em hỏi han, an ủi mẹ. Mẹ kể cho chúng tôi nghe chuyện
chợ búa như đang nói chuyện với người lớn, tôi ngồi nghe, nhìn đôi vai
gầy của mẹ, nhìn mái tóc và đôi bàn tay khô của mẹ, mà thấy thương mẹ vô
cùng.
>
> Tôi phải bỏ học ở nhà hai năm để
trông chừng em. Mẹ có một sạp bán rau cải ở chợ Cồn. Gọi là sạp chứ thực
ra chỉ là một ô đất nhỏ, sáng mẹ ra đi thật sớm, lúc trời còn mờ sương,
buổi trưa mẹ về nhà lo cho chúng tôi ăn, nằm nghỉ ít phút rồi trở dậy
sửa soạn cho chuyến chợ chiều. Một tuần bảy ngày, mẹ đi đi về về trong
nỗi cô đơn.
>
> Năm em vừa tròn năm tuổi thì mẹ cho
em vào mẫu giáo, tôi cũng trở lại trường, đám bạn cũ của tôi nay đã hơn
tôi hai lớp, ngồi xung quanh tôi bây giờ là những khuôn mặt lạ, kém tôi
hai, ba tuổi. Tôi là học trò lớn nhất và học khá nên được làm trưởng
lớp. Gần cuối năm học lớp nhì, tôi nói với mẹ lên xin thầy
Hiệu trưởng cho tôi được thi nhảy tiểu học. Thầy bằng lòng. Tôi cắm cúi
học luyện thi và kết quả là tôi đã đỗ được bằng tiểu học năm đó.
>
>
Vào lớp đệ thất trường Trần quốc Tuấn, tôi tiếp tục học ngày,
học đêm, năm đệ ngũ tôi thi nhảy một lần nữa lấy bằng Trung học. Đến
niên học đệ tam thì tôi đã bắt kịp đám bạn cũ, tôi hân hoan nhập bầy
chung với đám bạn ngày xưa. Đây là giai đoạn mà tôi cần tiền để mua sách
học và may thêm quần áo, thời tiểu học và trung học đệ nhất cấp thì mặc
sao cũng được, nhưng bây giờ đã lên đệ nhị cấp rồi, đã bắt đầu biết đỏ
mặt khi nhìn những đứa con gái trường nữ, thỉnh thoảng đã biết theo bạn
tập uống cafe, phì phà điếu thuốc. Tiền mẹ
cho không đủ, tôi bắt đầu công việc kèm trẻ tư gia để kiếm thêm tiền.
Học trò của tôi là mấy cô cậu đệ thất đệ lục, nghĩa là cũng chỉ bé thua
tôi vài tuổi.
>
> Ba mẹ con tôi vẫn ngày ngày đi về
căn nhà nhỏ, căn nhà vẫn không thay đổi một chút nào từ ngày bố bỏ mấy
mẹ con để ra đi.
>
> Hết năm đệ tam, tôi nộp đơn thi
Tú Tài phần nhất. Tôi đậu bình thứ. Một lần nữa, mọi người ngạc nhiên,
nhưng tôi biết sức học của mình, tôi biết mẹ buôn bán tảo tần, tôi thấy
những năm tháng gần đây mẹ trở bệnh hoài, mỗi sáng mẹ lục đục dậy thật
sớm nấu cơm để dành cho anh em tôi, rồi lặng lẽ mang đôi quang gánh lên
vai, những tối ngồi trâm ngâm bên ánh đèn dầu nhìn anh em
tôi học bài và những đêm khuya mẹ trở mình húng hắng ho. Tôi thương mẹ
và em đến ứa nước mắt, và càng thương mẹ thương em, tôi càng học như
điên, như cuồng. Tôi ước gì Bộ Giáo dục cho tôi thi hai bằng tú tài cùng
một lúc. Nhìn mái tóc mẹ đã lớm chớm sợi bạc, nhìn lưng mẹ mỗi ngày mỗi
như còng xuống, nhìn hai vai gầy của mẹ mà lòng quặn đau, và cứ thế,
tôi vùi đầu vào sách vở...
>
> Em đã bắt đầu tuổi
lớn, đã bắt đầu tuổi mộng mơ con gái, đã bắt đầu bước vào "tuổi ngọc",
nhưng tội nghiệp, biết nhà mình nghèo, biết mẹ mình buôn thúng bán bưng,
biết anh mình vẫn chiều chiều đi kèm trẻ kiếm thêm tiền và cặm cụi học
đốt giai đoạn cho chóng thành tài. Biết thế nên em ít khi nào xin mẹ,
xin anh
tiền may áo mới, hai chiếc áo dài trắng đủ cho em thay đổi. Em lớn lên
thiếu tình của bố, nên tôi "quyền huynh thế phụ". Nhiều lúc nhìn mẹ,
nhìn em, tôi vẫn không hiểu tại sao bố lại đành đoạn dứt áo ra đi.
>
>
Tôi thi đỗ Tú Tài toàn phần năm 18 tuổi, và ra Huế học Đại học
Văn khoa. Mẹ ở một mình với em ở Đà nẳng. Mỗi cuối tuần, tôi theo xe đò
về thăm mẹ và em, đến sáng thứ hai trở lại trường. Ở Huế, tôi tiếp tục
công việc kèm trẻ tư gia. Với số tiền nhỏ nhoi kiếm đuợc, tôi phụ mẹ một
ít nuôi em.
>
> Qua sinh nhật thứ 13 của em mấy
tháng, một chiều mẹ bỏ buổi chợ, về nhà than nhức đầu, tưởng là cảm nhẹ,
mẹ sai em cạo gió và nấu cho mẹ bát cháo hành. Khuya đó
mẹ lên cơn sốt, lảm nhảm nói mê, sáng hôm sau em nghỉ học chở mẹ vào
nhà thương và nhờ người nhắn tin ra cho tôi ở Huế.
>
>
Lật đật trở vào Đà nẳng bằng chuyến xe đò chót. Trời tối đã lâu,
không kịp ăn uống, từ bến xe tôi đi thẳng đến bệnh viện. Trong căn phòng
nhỏ, dưới ánh đèn vàng mờ đục, mẹ nằm thiêm thiếp trên giường bệnh, còn
em đang ngồi ngủ gà ngủ gật cạnh giường. Đứng yên lặng nhìn mẹ xanh xao
bất động, và khuôn mặt thơ dại của em, trong giấc ngủ hai khoé mắt vẫn
còn long lanh giọt lệ, tôi nghe lòng mình quặn thắt.
>
>
Đánh thức em dậy, em ngơ ngác dụi mắt vài giây. Nhận ra tôi, em
nhào tới ôm chầm và òa lên khóc, em cho hay là từ lúc đưa mẹ vào đây, mẹ
chỉ tỉnh lại một vài phút vào khoảng giữa trưa, sau đó mẹ hôn mê trở
lại. Tôi an ủi em, rồi cùng em ra văn phòng bệnh viện. Cô y tá trực cho
hay mẹ bị đứt một tỉnh mach ở đầu. Tôi bàng hoàng như bị ai nện một nhát
búa vào ngực. Cô y tá bùi ngùi nhìn em, đôi mắt xót xa...
>
>
Tối đó, anh em tôi cùng ở lại với mẹ, em mệt mỏi, nên chỉ một
thoáng là đã ngủ say. Trong giấc ngủ mệt nhọc, thỉnh thoảng em ú ớ mẹ
ơi, mẹ ơi rồi nức lên mấy tiếng. Tôi nghe như dao cắt trong lòng. Suốt
đêm không ngủ, tôi cứ ngồi nhìn mẹ nằm im lìm và bên chân mẹ em ngủ chập
chờn. Tôi tự nhủ thầm với mình đừng khóc, đừng khóc ... nhưng sao nước
mắt vẫn cứ trào ra, một tay ve vuốt bàn tay xanh xao của mẹ, một tay nắm
lấy bàn
tay nhỏ bé của em, tôi để mặc cho hai giòng nước mắt chảy nhạt nhoà
trên má.
>
> Mẹ thở hơi cuối cùng lúc năm giờ sáng,
mẹ không tỉnh lại để trăn trối với hai con một lời gì. Mẹ đi trong yên
lặng. Tôi nắm bàn tay mẹ và thấy tay mẹ lạnh dần. Tôi đánh thức em dậy.
Hai anh em hôn lên trán mẹ giã từ. Em vuốt mắt mẹ. Mắt mẹ nhắm hờ. Em ôm
chặt hai tay mẹ, ủ vào lòng mình miệng kêu lên nho nhỏ: mẹ ơi, mẹ ơi...
Em khóc lặng lẽ, áp mình vào ngực mẹ nước mắt em tuôn ràn rụa làm ướt
đẩm cả vạt áo mẹ bạc màu. Những tiếng kêu nghẹn ngào của em như những
viên đạn bắn thẳng vào tim, tôi ngồi bất động nhìn mẹ, nhìn em, lòng đau
như muối xát. Tội nghiệp mẹ tôi, tội nghiệp em tôi. Em mới mười ba
tuổi...
>
> Chôn mẹ xong, tôi bỏ học. Còn lòng dạ nào mà học nữa. Nhưng em thì phải trở lại trường.
>
>
Bán đi căn nhà nhỏ xiêu vẹo và gom tóm tất cả vốn liếng của mẹ
để lại, tôi đưa hết số tiền cho mẹ của Minh, một người bạn thân tôi.
Minh có Hân, cô em gái cùng tuổi, cùng lớp với em. Tôi gửi em đến đó ở
và đi học với Hân, cũng may, bố mẹ Minh coi anh em tôi như con. Tôi dặn
dò em đủ điều. Số tiền tôi gởi cho mẹ Minh đủ để trả tiền ăn ở của em
trong hai ba năm. Tôi còn đưa thêm cho em một ít để em mua sách vở, may
áo quần, tiêu vặt. Tôi ôm em và hứa với lòng, hứa với vong hồn mẹ là sẽ
lo lắng, sẽ bảo bọc em cho đến trọn đời. Tôi vào trường Võ bị Đà Lạt năm
20 tuổi, lương sinh viên sĩ quan ít ỏi, tôi tiết kiệm không dám xài
nhiều, để dành gởi về cho em mỗi tháng. Tôi dặn em viết thư mỗi tuần kể
cho tôi nghe chuyện học hành. Tôi bắt em hứa là không bao gi dấu tôi một
điều gì dù nhỏ bé. Em ngoan ngoãn vâng lời. Mỗi năm tôi được về phép
một lần, hai anh em quấn quýt không rời. Tôi đưa em đi thăm mẹ. Chúng
tôi lặng yên cầm tay nhau quỳ bên mộ mẹ, nước mắt lưng tròng.
>
>
Em lớn lên và ngày càng giống mẹ. Cũng khuôn mặt và cái nhìn
nhẫn nhục, cũng đôi mắt xa xăm buồn hiu hắt. Bình thường em rất ít nói,
có lẽ không cha, mồ côi mẹ quá sớm và anh lại ở xa đã làm em rụt rè.
Cũng may, bên cạnh em vẫn còn có Hân. Lễ mãn khoá của tôi, em và Hân
cùng lên tham dự, lúc này, em
đã thi đổ vào trường Sư phạm Qui Nhơn, hai năm nửa em sẽ trở thành cô
giáo, tôi hãnh diện giới thiệu em và Hân với các bạn mình. Nhìn dáng em
thẹn thùng e ấp, tôi thấy lòng mình rạt rào thương em. Tôi thầm gọi mẹ,
mẹ ơi, hai con của mẹ đã trưởng thành và đã nên người.
>
>
Ra trường, tôi chọn binh chủng nhảy dù, có lẽ cũng chỉ vì tôi
thích màu mũ đỏ. Em vào học và ở nội trú trong trường sư phạm. Tôi thấy
mình yên tâm hơn. Mỗi tháng, tôi vẫn gửi về cho em một nửa tiền lương
lính của mình để trả tiền phòng, tiền ăn. Tôi biết con gái cần nhiều thứ
hơn con trai, như áo quần, son phấn... Em vẫn viết thư cho tôi mỗi tuần
như em đã làm trong mấy năm qua. Em kể chuyện học hành, chuyện bạn bè,
em lo sợ là tôi đi
tác chiến nhở có ngày bố con gặp nhau ở chiến trường, làm sao nhận ra
nhau, em không nói thêm, nhưng tôi cũng hiểu, tên đạn vô tình, nếu
nhỡ...
>
> Hai năm em học Sư Phạm trôi qua thật
nhanh. Em bây giờ đã là một cô giáo trẻ. Em được đổi về dạy tại một
trường tiểu học gần thị xã Phan Rang. Em thuê nhà chung với hai cô giáo
khác. Mỗi ngày ba cô giáo ngồi xe lam đi đến lớp, chiều về cả ba cùng
quây quần nấu nướng . Em viết thư cho tôi và khoe có quen với Tuấn, một
Sĩ quan Hải quân đồn trú ở Phan rang. Em khen Tuấn hiền lành, ít nói. Em
kể thêm là Tuấn chỉ còn có mỗi một mẹ già. Chiến tranh ngày thêm khốc
liệt, đơn vị tôi hành quân liên miên, có khi cả năm chúng tôi mới được
về hậu cứ một lần. Tôi bị thương
hai lần trong cùng một năm. Tôi dấu em, không cho em biết sợ em lo
lắng. Trong những tuần lể nằm bệnh viện và ở hậu cứ dưỡng thương, tôi
bắt đầu viết bài đăng trên các báo và tạp chí. Tôi kể lại những trận
đụng độ kinh hoàng giữa đơn vị tôi và giặc Cộng, tôi kể lại những "kỳ
tích" của bạn tôi, của Mễ, của Lô ...
>
> Sau một
lần bị thương nhẹ ở tay, tôi lấy mấy ngày phép ra Phan Rang thăm em. Em
mừng rỡ ôm lấy anh, nhưng khi thấy cánh tay băng bột em xót xa bật khóc.
Tôi an ủi em là biết đâu sau chuyến bị thương này tôi sẽ được về làm
việc hậu cứ. Ngày hôm sau, nghe tin, Tuấn đến thăm. Thoạt nhìn, tôi đã
có cảm tình với Tuấn, đúng như em nói, Tuấn trông rất hiền lành. Trong
suốt tuần lể ở Phan rang,
em vẫn phải đi dạy, nhưng may là có Tuấn, mỗi ngày Tuấn tới chở tôi đi
ăn sáng, trưa Tuấn và tôi lang thang ra chợ bạ gì ăn đó đợi giờ ba cô
giáo đi dạy học về. Buổi tối, em đi ngủ sớm, Tuấn ngồi lại nói chuyện
với tôi cho tới khuya. Bên ly cafe, tôi kể cho Tuấn nghe chuyện của
mình. Những hình ảnh yêu dấu, xót xa như một cuộn phim cũ quay chầm
chậm. Tôi rưng rưng kể lại ngày mẹ mất. Tuấn lấy tay chùi mắt, trong đêm
tối, tôi thấy mắt Tuấn long lanh ...
>
> Bảy ngày
phép cũng trôi nhanh. Tôi trở về Saigòn, lòng cảm thấy vui và nhẹ nhàng
vì đã có dịp gặp Tuấn. Tôi tin Tuấn sẽ không làm khổ em. Ba tuần sau,
tôi nhận được thư Tuấn, trong thư Tuấn kể về gia đình (mặc dù tôi đã
nghe em kể trong các lá thư). Tuấn
muốn tiến tới với em. Tuấn xin phép được đưa mẹ Tuấn đến gặp tôi. Tuấn
hứa là sẽ săn sóc và thương yêu em. Đọc thư Tuấn tôi ứa nước mắt vì
mừng. Mừng cho em may mắn không gặp những trắc trở trên đường tình ái,
mừng cho em gặp được một người chồng hiền hậu. Tôi viết thư cho em và
Tuấn, bảo hai em lo thế nào cho tiện, chỉ cố làm sao cho giản đơn vì cả
hai đứa cùng nghèo. Bốn tháng sau, Tuấn và em làm đám cưới, nhà gái
ngoài tôi còn có thêm mấy thằng bạn trong đơn vị, ông hiệu trưởng, thầy
cô giáo và rất đông học trò. Nhà trai ngoài mẹ Tuấn, mấy gia đình anh
chị họ còn thêm một số bạn bè Hải quân cùng đơn vị. Nhìn em súng sính
trong bộ đồ cưới , tươi cười đứng bên cạnh Tuấn, tôi gọi thầm mẹ ơi, mẹ
ơi, về đây dự
đám cưới của em. Tôi theo đơn vị lội thêm hai năm nửa ở vùng giới
tuyến, thì "tai nạn" xảy ra. Trong một lúc nóng giận vì thấy ông xếp của
mình sao ngu và bẩn quá, tôi không giữ được lời và đã xúc phạm đến ông,
kết quả là tôi bị đưa ra hội đồng kỷ luật và tống ra khỏi binh chủng
nhảy dù.
>
> Sau một thời gian ba chìm bảy nổi, tôi
đổi về cục Tâm lý Chiến, thời gian này tôi đã khá nổi tiếng, những bút
ký chiến trường về Tết Mậu Thân, Bình Long, An Lộc ... đã làm vinh danh
binh chủng cũ của tôi. Tôi được giải thưởng văn học với bút ký "Mùa hè
đỏ lửa". Tiền thưởng và tiền bán sách tôi gửi hết cho em. Tuấn và em
dùng tiền này mua được một căn nhà nhỏ ở ngoại ô Phan rang, gần trường
em
dạy.
>
> Mới ngày nào đó còn thẹn thùng nấp bên vai
Tuấn mà bây giờ em đã mấy con. Mỗi dịp rãnh rỗi tôi lại ra Phan Rang ở
chơi với em, với cháu. Tôi ôm cháu, hôn vào hai má phúng phính, hít vào
phổi mùi thơm của trẻ thơ mà thấy lòng mình dịu lại, những cay đắng, cực
nhọc của đời theo tiếng cười lanh lãnh dòn tan của cháu mà bay xa, bay
xa. Tôi nhìn hai vợ chồng em, nhìn bầy cháu nhỏ lẫm chẫm quây quần bên
chân mẹ mà lòng vừa vui mừng vừa hãnh diện. Tôi ao uớc mẹ tôi nhìn thấy
được cảnh này.
>
> Biến cố tháng 4/75 tới như một
định mệnh oan nghiệt, cả Tuấn và tôi đều phải ra trình diện cải tạo. Em ở
lại một mình với một bầy con nhỏ, đứa lớn nhất chưa đầy sáu tuổi và
đứa nhỏ nhất còn nằm trong bụng mẹ. Trong trại, tôi cứ đứt ruột nghĩ về
em và bầy cháu nhỏ. Mẹ của Tuấn đã quá già, làm sao lo phụ với em đây.
Rồi em còn phải lo lắng về số phận chồng, số phận anh. Tôi quay quắt như
như ngồi trên đống lửa, tôi nghĩ đến lời hứa với vong hồn mẹ hôm nào mà
lòng đau như xé, con đã thất hứa với mẹ, mẹ ơi, con đang ở đây tù tội
thì làm sao lo được cho em ...
>
> Năm 76 tôi bị đưa
ra Bắc. Tôi mất liên lạc với em và Tuấn từ tháng 5/75. Làm sao em biết
tôi ở đâu mà thư từ thăm gửi. Không biết em có biết Tuấn ở đâu không,
trại tù mọc lên như nấm từ Nam ra Bắc. Hồi còn ở trong Nam, từ Trảng
lớn, qua Suối máu, đâu đâu tôi cũng cố dò hỏi tin Tuấn nhưng vô hiệu. Tù
nhân
đông quá ...
>
> Trại cải tạo Sơn La, sau đợt cho
viết thư về gia đình đầu tiên, ba tháng sau tôi nhận được thư em. Thư em
đến tay tôi vào giữa năm 77. Hơn 2 năm 1 tháng tôi mới nhìn lại nét chữ
của em. Run run bóc thư, mắt tôi cay nồng, nhạt nhoà. Em cho hay là
Tuấn đang cải tạo ở Long Thành, Tuấn có thư về và cho biết vẫn bình an,
mẹ Tuấn dạo này yếu lắm vì cụ đã quá già, em vẫn đi dạy, hai cháu nhỏ ở
nhà với bà nội, hai cháu lớn theo mẹ vào trường, em cho hay đứa con gái
út em đặt tên Tâm, Trần thị Minh Tâm, cháu sinh ngày 12 tháng 9 năm 75,
gần 4 tháng sau ngày bố cháu và bác cháu vào tù.
>
>
Gần cuối thư, em báo tin là bố còn sống và hồi đầu năm 76 có tìm đến
gặp em, làm sao bố
tìm ra địa chỉ thì em không biết, nhưng hôm ấy bố đến, bố tự giới thiệu
tên mình. Em ngỡ ngàng, ngày bố ra đi em mới tròn ba tuổi, hơn hai mươi
năm sau gặp lại làm sao em nhận được , bố xoa đầu đám cháu ngoại đang
trố mắt nhìn nguời đàn ông lạ, bố hỏi về anh, về Tuấn, khi em hỏi lại bố
là làm sao để biết anh và Tuấn đang bị giam giữ ở trại cải tạo nào, bố
lắc đầu không nói gì. Bố cho hay là bố đang có gia đình ở Bắc, ngoài ấy
bố có thêm hai trai và hai gái. Đứa trai lớn nhất thua em bốn tuổi.
>
>
Bố mang vào cho em hai mươi ký gạo và một chục cam. Bố ở chơi
một ngày rồi bố trở về Hà nội. Lúc bố về em có tặng bố cái
radio-cassette của anh cho ngày nào. Bố thích lắm, bố hứa sẽ đến thăm
anh trong
trại tù. Từ hồi trở ra Bắc đến giờ bố chưa liên lạc lại với em, và em
cũng không có địa chỉ của bố ở ngoài ấy. Tôi đọc thư lòng thấy phân vân,
tôi cũng như em, không hình dung ra nổi bố tôi hình dáng mặt mủi ra
sao, hai mươi mấy năm, tôi tưởng bố tôi đã chết.
>
> Tháng 12 năm 77, tại trại cải tạo Sơn La, bố đến thăm tôi.
>
>
Đứng trong văn phòng viên sĩ quan trưởng trại một người đàn ông
trung niên, tóc muối tiêu và gương mặt xương. Bộ áo quần dân sự khá
thẳng thớm, và sự lễ phép của tên đại úy truởng trại tiết lộ về địa vị
không nhỏ của người này. Thấy tôi vào, viên trưởng trại quay qua nói nhỏ
một câu gì đó rồi bước ra ngoài. Tôi im lặng đứng nhìn người
đàn ông xa lạ.
>
> Bố đến bắt tay tôi, tự xưng tên
mình, bố gọi tôi bằng anh, bố kể là đã gặp em ở Phan Rang, bố hỏi tôi
học tập thế nào, bố không hề nhắc đến mẹ, có lẽ ông đã biết về cái chết
của mẹ. Bố nói là có đọc văn tôi. Tôi ngồi yên nghe bố nói, sau cùng ,
bố đứng dậy, móc trong xách ra một gói nhỏ bảo đó là đường và thuốc lá,
trao cho tôi, khuyên tôi cố gắng học tập tốt để sớm được khoan hồng. Tôi
nhìn vào mắt bố, lòng thấy dững dưng. Tôi bắt tay bố rồi về lại lán
mình. Đó, cuộc hội ngộ của bố con tôi sau hơn hai mươi năm là thế đấy.
Chắc cuộc tái ngộ giữa bố với em cũng tẻ nhạt như thế. Có cái gì đó ngăn
cách, có cái gì đó phân chia, có cái gì đó tôi không hiểu và không
diễn tả được. Bây giờ tôi hiểu vì sao cái tin quan trọng đến thế mà em
lại chỉ đề cập một cách ngắn ngủi ở cuối thư.
>
>
Lần đó là lần đầu và cũng là lần duy nhất tôi gặp bố trong suốt 13 năm
lang thang trong các trại tù biệt giam miền Bắc.
>
>
Tháng 12/78, chuyển trại lên Yên Bái, tôi nhận thêm được hai lá thư của
em, trong bức thư gần nhất, em viết vào tháng 8/78. Em cho hay tình
trạng rất khó khăn, phụ cấp đi dạy không đủ nuôi một mẹ già và bốn con
thơ, em đã bán lần mòn hết những đồ trang sức và luôn cả những đồ vật
trong nhà. Em vẫn chưa đi thăm nuôi Tuấn được một lần nào. Không thể để
bốn cháu nhỏ ở nhà cho bà nội vì cụ bây giờ đã quá yếu, mỗi buổi ăn,
Uyên, cháu lớn phải đút cho bà. Ngoài ra, mỗi tối, từ lúc chạng vạng em
và Hoàng, hai mẹ con phải ra đầu ngõ, ngồi bán bắp nướng đến khuya để
kiếm thêm tiền đong gạo. Em than là dạo này mất ngủ, sức khoẻ yếu lắm,
em sợ nhở có mệnh hệ nào ...
>
> Tôi thẩn thờ cả
buổi vì bức thư em, ngày xưa tôi chỉ lo cho có mỗi mình em, còn bây giờ
em phải lo cho bốn đứa con thơ và một mẹ già, kể luôn người chồng và ông
anh đang tù tội là bảy, bảy cây thập giá đời đang đè nặng lên đôi vai
gầy guộc, nhỏ bé của em. Tôi viết thư về an ủi, khuyên em cố gắng, tôi
vỗ về em là có thể Tuấn sẽ được tha về sớm với em, với cháu, vì Tuấn đi
hải quân và lon còn thấp, không có tội với cách mạng nhiều. Rồi tôi viết
thêm
cho em hai ba lá thư nữa mà vẫn không thấy hồi âm. Lòng tôi cồn cào,
nóng như lửa đốt, những ngày dài tù tội, tôi không nghĩ đến cái đói, cái
khổ của mình mà chỉ nghĩ đến em và mấy cháu, không biết giờ này, em và
bốn cháu thơ dại đang có gì ăn ? Tháng 6/79, một sáng trên đường lên
rừng đốn nứa, tôi nghe loáng thoáng câu chuyện giữa các bạn tù. Họ nghe
từ các bà vợ đi thăm nuôi kể lại, rằng ở Phan Rang có một chị có chồng
đang đi cải tạo, chị chết đi, để lại bốn con thơ, đứa bé nhất mới lên
ba, còn đứa lớn nhất chưa đầy chín tuổi. Tội nghiệp, họ hàng nội ngoại
không có một ai. Tôi bỗng dưng thấy lạnh toát cả sống lưng, lại gần hỏi
thêm thì người bạn tù cho hay là nghe nói chị ấy làm nghề cô giáo, có
chồng sĩ quan hải quân
đang đi tù cải tạo ở đâu đó trong Nam. Nguời chồng, trung úy hải quân
trước cũng đóng ở Phan Rang. Trần Nguyên Tuấn, hải quân trung úy Trần
Nguyên Tuấn . Tôi thấy đất trời đảo lộn, tôi thấy mặt trời nổ tung trong
óc, tôi hụt hơi, miệng há hốc đứng như trời trồng giữa núi rừng Yên
Bái, bên cạnh tôi tiếng nguời nói lao xao. Tôi không nghe gì hết, tai
tôi lùng bùng, mắt tôi mờ đi, tôi đang nhìn thấy xác em nằm co quắp trên
manh chiếu, bốn đứa cháu của tôi, cháu Minh Tâm chưa đầy ba tuổi đang
lấy tay lay lay xác mẹ, cháu lớn Thu Uyên chưa đủ chín tuổi đang ôm chân
mẹ khóc lóc ủ ê, hai đứa kia, Hoàng và Châu ngơ ngác đứng nhìn. Trời
tháng 6 mùa hè Yên bái mà sao tôi thấy thân mình lạnh buốt. Tôi tê dại,
tôi hóa đá, tôi không còn cảm xúc, tôi muốn
hét lên cho tan vỡ cả vũ trụ này. Trong lung linh màu nắng vàng buổi
trưa Yên Bái, tôi thấy bóng em nhập nhòa, chập chờn. Em của tôi, đứa em
côi cút của tôi .... Mũi súng AK thúc vào cạnh sườn, người vệ binh chắc
cũng ngạc nhiên không hiểu sao bỗng dưng tôi đứng như trời trồng giữa
lộ. Anh quắc mắt nhìn tôi dò hỏi, tôi không nói gì, im lặng nhập vào
dòng tù. Nước mắt chảy dài trên hai má hóp, tôi bước đi như kẻ mộng du
..
Saturday, April 9, 2011
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
0 comments:
Post a Comment