Sunday, September 2, 2012

An lạc sau khi bứng gốc khổ đau - HT Thích Thanh Từ

BÀI NÓI CHUYỆN VỚI PHẬT TỬ
XUÂN ĐINH MÃO 1987
Hôm nay là ngày Tết Nguyên Đán năm Đinh Mão 1987, quí Phật tử đến
chùa lễ Phật và chúc mừng năm mới quí thầy. Để đáp lại lòng kính trọng Tam Bảo
của quí Phật tử, chúng tôi sẽ có lời chúc đầu năm hơi dài dòng một chút, không chỉ
một câu ngắn gọn rồi thôi, lời chúc này gồm nhiều chi tiết. Hôm nay đầu đề chúng
tôi chúc là: Cầu tam bảo gia hộ cho tất cả Phật tử một năm mới hoàn toàn an lạc.
Khi nói đến an lạc, trước phải nói đến đau khổ. Nếu nói an lạc suông, quí vị
lại tưởng là mình thảnh thơi lắm, rồi không cố gắng tu hành. Vì vậy khi chúc quí
Phật tử một năm mới hoàn toàn an lạc, chúng tôi sẽ nói rõ nguồn gốc đau khổ của
con người hiện tại và vị lai. Nếu biết được nguồn gốc đau khổ mình nhổ phăng bứt
gốc bứt rễ nó lên thì an lạc sẽ đến, an lạc thật sự.
Tất cả Phật tử chúng ta là con Phật phải nhìn thấy đúng như cái nhìn cái
thấy của đức Phật. Sau khi giác ngộ rồi, đức Phật thấy rõ được bản chất của con
người như thế nào, Ngài đem ra chỉ dạy để chúng ta thức tỉnh biết rõ được con
người mình. Khi biết rõ được con người mình thì chúng ta mới biết làm sao để hết
khổ và làm sao để đến an lạc thật sự, đó là gốc của sự tu. Nếu chúng ta không biết
bản chất của mình là vui hay khổ cứ sống lây lất qua ngày, đua đòi theo những
hình thức vật chất, chúng ta phải tạo nghiệp thọ khổ, chẳng những đời này mà còn
kéo dài không biết bao nhiêu kiếp nữa. Vì lòng từ bi, đức Phật muốn cho mọi
người hết khổ, nên trước tiên Ngài chỉ rõ nguồn gốc đau khổ. Thấy được nó chúng
ta mới có thể đào bới nó lên được. Nếu không thấy nó chúng ta muốn cầu vui mà
cái vui không bao giờ đến, vì chúng ta có biết cái khổ đâu mà bới lên. Thành ra
muốn vui mà con người cứ khổ, cái khổ cứ tràn tới mãi mãi. Chính con người ở
thế gian đang là như vậy, lúc nào cũng chúc mừng nhau năm mới được an vui
hạnh phúc, nhưng đến cuối năm quí vị thấy có an vui hạnh phúc không? Luôn luôn
chúc nhau an vui hạnh phúc mà kết quả lại không có an vui hạnh phúc chi hết, mà
trái lại nhiều khổ đau, nhiều bực bội. Chúc như vậy chỉ là chúc suông thôi.
Ở đây chúng tôi muốn quí Phật tử thật sự sang năm này là một năm quí
Phật tử tạo nên một cội nguồn của sự an lạc. Muốn tạo nên cội nguồn an lạc đó
trước tiên quí Phật tử phải biết nguồn gốc đau khổ là cái gì? Biết được nó rồi
chúng ta mới có thể bứng gốc bứng rễ nó để thành an lạc.
Nguồn gốc đau khổ là cái gì?
Trong đạo Phật, lúc nào đức Phật cũng muốn chỉ cho mọi người thấy được
lẽ thật của kiếp sống con người. Chúng ta cứ tìm những điều quanh quẩn bên
ngoài mà những điều đó dù chúng ta thấy được lẽ thật của chúng, cũng là lẽ thật
bên ngoài thôi; còn bản thân chúng ta chưa biết chưa thấy đó là một khuyết điểm
lớn lao. Vì vậy đức Phật nói rõ bản chất của con người là khổ hay vui? – Khổ!
Vừa nghe thoáng qua chúng ta cảm thấy bi quan, nhưng đó là sự thật.
Vì sao bản chất con người là đau khổ?
Đức Phật dạy: đau khổ chia ra hai phần:
1. Đau khổ do sự cảm thọ.
2. Đau khổ do lòng tham ái.
Như vậy chúng ta cần xác định lại kiếp sống con người là đau khổ, chớ
không phải là an vui. Đức Phật dạy những đau khổ của con người là do:
- Sanh, già, bệnh, chết,
- Ái biệt ly khổ,
- Oán tắng hội khổ,
- Cầu bất đắc khổ,
- Ngũ ấm xí thạnh khổ.
Chúng ta ở trên thế gian này thật là khổ. Trong cuộc sống quí vị muốn một
trăm điều, kết quả được bao nhiêu? Nhiều lắm là hai chục điều thôi tức là có hai
chục phần trăm được như ý. Đó là tôi nói ưu đó, có khi còn chưa được như vậy
nữa! Còn tám chục phần trăm là bất như ý, tức là không toại nguyện, mà không
toại nguyện là đau khổ. Nhìn tổng quát, đức Phật nói cuộc đời con người là đau
khổ, sanh là khổ. Đó là cái khổ thứ nhất.
Già có khổ không? Có ai nói già mà vui đâu! Già thì thân thể yếu gầy bệnh
hoạn, rồi răng rụng da nhăn, chân mỏi gối dùn, đi đứng lụm cụm, đủ chuyện phiền
hà, nên nói già là khổ.
Bệnh có vui không? Bệnh là khổ rồi, không ai chối được.
Còn chết thì sao? Là đại khổ!
Như vậy thử kiểm lại ở trần gian này, có người nào thoát khỏi sanh lão
bệnh tử hay không? Ai cũng sanh ra rồi già đi, ai cũng phải bệnh hoạn rồi cuối
cùng là chết. Không một ai thoát khỏi bốn điều này, cho nên nói kiếp người đau
khổ là như vậy.
Đến ái biệt ly: thương mà xa lìa. Những người mình thương rất là thương
mà xa lìa, có gì khổ cho bằng! Có người nào khỏi xa lìa thân nhân mình đâu, thân
nhất là cha mẹ, vợ chồng, anh em, bạn bè, có lúc cũng phải xa lìa. Như vậy gọi là
ái biệt ly khổ. Oán tắng hội khổ: ghét mà gặp mặt nhau cũng khổ. Những người
mình không thích, không muốn thấy mặt mà cứ ở ngay trước mắt mình hoài thì
làm sao vui được! Cầu bất đắc khổ: mong cầu mà không được như ý cho nên khổ.
Cái khổ thứ tám là ngũ ấm xí thạnh khổ. Năm ấm sắc, thọ, tưởng, hành, thức cấu
hợp thành thân này, luôn luôn chống đối, bất an cho nên đau khổ.
Tám điều khổ vừa kể trên, chúng ta đều phải đa mang suốt cuộc đời, không
thiếu sót một điều nào. Có ai khỏi sanh già bệnh chết? Có ai không xa lìa người
thương, không gặp gỡ người mình ghét? Có ai cầu điều gì được điều nấy đâu?
Tám điều khổ của con người là sự thật, không chối cãi được. Đau khổ là một lẽ
thật không làm sao tránh được, nó luôn luôn theo dõi ép ngặt khiến chúng ta bất an.
Nếu có gượng cười gượng vui, chỉ trong giây lát rồi cũng khổ. Ví dụ như khi gặp
bạn bè vui tươi chốc lát, đến lúc về nhà đau chân, mỏi lưng… cảm thấy khổ thân.
Như gặp người thân thì mừng rỡ, nhắc lại người xa cách thì than khóc. Gặp người
mình thích thì tươi cười, gặp người mình ghét thì bực bội. Cả ngày vui buồn thay
đổi luôn luôn, điều vui thì ít, đau khổ thì nhiều. Bản chất con người là đau khổ.
Đức Phật gọi đó là Khổ đế: Khổ là một lẽ thật không chối cãi được.
- Tám điều khổ do đâu mà ra? Gốc từ cảm thọ mà ra. Cảm thọ chia ra làm
hai phần:
1. Cảm thọ sai biệt của sáu căn rồi chấp nê sanh đau khổ.
2. Cảm thọ do đuổi theo thú vui rồi giành giựt sanh đau khổ.
Vì sao cảm thọ sai biệt của sáu căn gây nên đau khổ? Chúng ta ai cũng có
sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Sáu căn này có những cảm thọ ngoại cảnh
không giống nhau. Thí dụ như mắt chúng ta nhìn thấy sự vật, nếu vị nào có con
mắt nghệ thuật, khi nhìn bình hoa đặt trên bàn thì trầm trồ khen hoa chưng đẹp
mắt. Nhưng một người khác không có mắt nghệ thuật nhìn mấy nhánh hoa lưa
thưa ngả nghiêng không có gì đẹp cả. Người bảo đẹp, người cho là xấu, hai người
không đồng ý nhau rồi sanh bực tức tranh cãi. Con mắt xúc chạm với sắc trần,
người thấy đẹp, người thấy xấu là do cảm thọ sai biệt mà ra. Như vậy ai đúng?
Nếu không ai đúng thì sao lại tranh cãi? Thật là vô lý. Mỗi người có cái thấy
không giống nhau. Do cái thấy khác nhau, rồi không đồng ý với nhau nên sanh cãi
rầy. Nguyên do là vì chúng ta không có nhận xét đúng đắn.
Đến cảm thọ sai biệt của lỗ tai. Thí dụ hai ba người bạn ngồi chơi, một
người kể chuyện phải quấy trong xóm, rồi nói: Những người nghèo thật đáng
thương. Người bạn khá giả nghe nói như vậy thì vẫn bình tĩnh, trong khi người
bạn nghèo cho rằng mình bị khinh khi. Cùng nghe một câu chuyện, mà một người
thì không bị xúc phạm, còn một người thì bị tự ái, bị mặc cảm. Lời nói có giá trị
bằng nhau, nhưng khi nghe rồi sự cảm thọ khác nhau, nên sanh vui buồn khác
nhau. Một người cho rằng không có chỉ trích người nghèo, một người cho rằng
mình nghèo nên bị khinh khi, hai người không đồng ý nhau nên sanh cãi vã. Đó là
do sự cảm thọ sai biệt của lỗ tai.
Sự cảm thọ của mũi có giống nhau không? Như người miền Nam nghe mùi
sầu riêng nói: thơm quá! Nhưng người miền Trung bảo: hôi quá! Cùng một mùi
sầu riêng người nói thơm, người nói hôi. Như vậy ai đúng? Người nói mùi sầu
riêng là thơm sẽ cãi với người kia. Người nói mùi sầu riêng là hôi sẽ cãi lại. Hai
người sẽ đi đến ẩu đả nhau. Ai đúng? Ai sai? Người bàng quan ngoại cuộc nếu ở
miền Nam thì cho rằng người ngửi thơm là đúng, nếu ở miền Trung thì cho người
ngửi hôi là đúng. Do sự huân tập khác nhau nên sự cảm thọ có sai biệt. Sự tranh
cãi đúng sai thật là vô ích, không khôn chút nào hết, lại làm buồn lòng nhau, chẳng
phải nguồn gốc của đau khổ sao? Buồn giận nhau, không ngó mặt nhau, gọi là oán
tắng hội, đau khổ từ đó mà sanh.
Sự cảm thọ của lưỡi cũng khác nhau! Thí dụ cô đầu bếp làm thức ăn. Cô
nấu canh nêm nếm đàng hoàng rất là vừa ý. Nhưng vì cô quen ăn mặn nên những
người quen ăn lạt chê là nêm canh quá mặn. Cô đầu bếp tức giận nghĩ mình nấu
nướng kỹ lưỡng, nêm nếm vừa ăn lắm mà còn bị chê trách! Chung qui chỉ vì thói
quen của cái lưỡi người quen ăn mặn, người quen ăn lạt mà thôi. Người quen ăn
mặn cảm thấy vừa miệng thì người quen ăn lạt cho là mặn và ngược lại, người
quen ăn lạt cảm thấy vừa ăn thì người quen ăn mặn cho là lạt. Như vậy lấy đâu
làm tiêu chuẩn? Vì sao lại cãi nhau cho sự cảm thọ của mình là đúng? Mỗi người
có khẩu vị khác nhau. Cùng một thức ăn, người khen ngon, người chê dở. Người
thích món ăn này, người thích món ăn kia, vì mỗi người có cảm thọ riêng biệt theo
thói quen của mình. Chẳng những chúng ta có thói quen đời này mà còn cả thói
quen của đời trước nữa. Thí dụ có người khi cha mẹ sanh ra chỉ ăn chay lạt, không
ăn thịt cá được. Vì lý do gì? Có phải là cảm thọ quá khứ còn lại, nên không thích
mùi thịt cá. Lại có người cha mẹ bảo ăn chay, thì thích dùng thức ăn mặn. Như vậy
là do thói quen của mọi người, hoặc ở hiện tại, hoặc đã huân tập trong quá khứ.
Chúng ta không nên chủ quan bắt buộc người khác phải giống mình. Nhưng ở trên
thế gian này phần đông chúng ta đều chủ quan muốn ai cũng giống mình, nhất là
con cái trong nhà. Nếu con trong nhà làm khác ý cha mẹ, cha mẹ sẽ bực tức giận
trách rầy la, tạo bao điều đau khổ trong gia đình. Tất cả cũng do sự cảm thọ sai
biệt mà ra.
Cảm thọ của thân như thế nào? Cũng riêng biệt tùy theo mỗi người. Thí dụ:
Hai người ở chung một căn phòng, một người mập béo, một người gầy ốm. Căn
phòng có một cửa sổ khi trời vừa mát người gầy ốm cảm thấy lạnh vội đi đóng cửa
sổ… Người mập béo nghĩ thế nào? Cảm thấy bực bội, khí trời nóng bức vừa dịu
mát lại đóng cửa sổ, không giận sao được! Rồi hai người cãi vã nhau, có khi đi
đến ẩu đả. Như vậy lẽ thật ở đâu? Đó là do cảm thọ sai biệt của thân nên người ta
bất đồng ý với nhau rồi sanh bất hòa, đó là nguồn gốc đau khổ.
Thứ sáu là cảm thọ của ý. Điều này là quan trọng hơn hết. Cảm thọ của ý là
gồm nghiệp của quá khứ và thói quen của hiện tại. Mỗi người chúng ta sống trong
hoàn cảnh gia đình và xã hội khác nhau nên được sự giáo dục và hiểu biết khác
nhau. Người thấy thế này là phải, người thấy thế kia là phải. Thí dụ: Một người
sanh trong gia đình theo đạo Phật từ thuở bé, một người sanh trong gia đình theo
đạo Chúa từ thuở bé. Hai người ngồi nói chuyện với nhau, do sự huân tập khác
nhau nên có những cảm nghĩ khác nhau. Người tin Chúa cho đạo Chúa là đúng,
không chấp nhận đạo Phật. Người tin Phật cho đạo Phật là hay, không chấp nhận
đạo Chúa. Hai người tranh luận với nhau, có những quan điểm bất đồng, bực bội
cãi vã lẫn nhau. Đó là nguồn gốc của đau khổ. Đến đời sống của vợ chồng trong
gia đình cũng vậy. Người chồng có sự huân tập của người nam, lo việc rộng lớn
ngoài xã hội, người vợ có sự huân tập của người nữ, lo việc tỉ mỉ trong nhà. Hai vợ
chồng có hai huân tập khác nhau, nên thường không đồng ý kiến với nhau. Ai
cũng thấy mình là đúng, người kia là sai, nên không ai chịu thua ai, cuối cùng đi
đến ly dị, hậu quả là con phải chịu đau khổ! Nguyên do từ đâu? Chỉ do sự cảm thọ
sai biệt, rồi chấp chặt cho quan niệm của mình là đúng, bắt người khác phải nghe
phải thấy như mình, phải có những cảm nghĩ những hiểu biết như mình. Nếu
không đồng ý nhau thì lắc đầu than thở: Sao không có ai là bạn tri kỷ với mình!
Thử hỏi trên thế gian này có mấy người tri kỷ giống mình như một? Chắc là không
rồi, vậy mà buộc lòng phải sống chung nhau thật là quá đau khổ!
Thế thì phải làm sao cho hết đau khổ! Chỉ đừng chấp nê là hết đau khổ!
Cùng một mùi trái cây tôi ngửi cho là thơm cũng đúng, chị cho là hôi cũng đúng
theo thói quen của mỗi người, như vậy hòa nhau, tránh được sự tranh cãi. Cùng
một thức ăn chị nếm nghe mặn, tôi nghe lạt, cả hai đều đúng theo thói quen của cả
hai, tất nhiên hòa nhau không có tranh cãi v.v… Nếu còn chủ trương sai biệt cho
mình là đúng, người là sai, là còn tranh cãi, còn đau khổ. Nhận chịu sự đau khổ là
khôn hay không khôn? Quả thật không khôn. Nhưng nếu ai bảo là mình ngu thì
mình lại nổi giận lên, có phải là mâu thuẫn không? Nếu còn chấp nê là còn đau
khổ. Hiểu như vậy rồi, chúng ta phải thông cảm với nhau, bỏ qua tất cả những sự
sai biệt để sống hòa thuận với nhau từ trong gia đình đến ngoài xã hội. Nếu biết
chấp nê là sai quấy thì phải mạnh dạn dẹp tự ái đến xin lỗi người, làm hòa với
nhau thì cuộc đời sẽ bớt được nhiều đau khổ.
Những người đến tôi để thưa kiện, đều than không ai thông cảm với mình
hết. Vì chấp sự cảm thọ của mình là đúng thì làm sao có người thông cảm với
mình được! Nếu buông tất cả chấp nê thì mọi người đều thông cảm với mình.
Chúng ta tu phải biết rõ lẽ thật đó, bỏ tất cả sự chấp nê do cảm thọ sai biệt, thì đau
khổ tự dứt. Không phải cầu Phật ban cho điều gì, không phải cầu xin nơi miếu này
lăng kia, mà phải biết rõ nguồn gốc của đau khổ là do sự cảm thọ sai biệt của sáu
căn, rồi chấp chặt vào đó, rồi tranh đấu, giành giật, hơn thua với nhau, cuối cùng là
đau khổ. Biết như vậy chúng ta buông xả tất cả sự chấp nê là chúng ta hết đau khổ.
Nguyên nhân thứ hai của đau khổ là đuổi theo thọ lạc. Hiện giờ chúng ta
đang sống, ai cũng muốn cuộc đời được hạnh phúc. Thử hỏi quí vị cái gì là hạnh
phúc? Chúng ta chỉ nói đến hạnh phúc mà không biết cái gì là hạnh phúc? Được
ăn ngon, mặc đẹp là hạnh phúc chăng? Được nhiều tiền của, ở nhà to rộng là hạnh
phúc chăng? Được những gì mình mong muốn là hạnh phúc chăng? Quí vị thử
kiểm lại những điều đó có phải là hạnh phúc thật hay không? Con người ai cũng
mơ ước hạnh phúc, mơ ước mãi mà không bao giờ toại nguyện. Vì sao? Thí dụ:
Khi đang đói chúng ta nghĩ có một bữa cơm ngon, hạnh phúc biết mấy! Nhưng khi
được bữa cơm ngon, ăn đầy đủ rồi, hạnh phúc còn không? Hạnh phúc qua mất rồi!
Như vậy hạnh phúc chỉ có trong chốc lát thôi, rồi qua mất không còn. Đang đi bộ,
chúng ta nghĩ được một chiếc xe đạp đi, chắc là hạnh phúc lắm. Nhưng khi được
chiếc xe đạp đi lọc cọc ba bốn hôm rồi nó hư, lúc đó có hạnh phúc không? Như
vậy hạnh phúc không bền, không thật, mà thế gian cứ đuổi theo cho nó là bền là
thật! Hạnh phúc qua rồi mất, đuổi theo cái qua rồi mất thì hạnh phúc ấy quả là
không thật. Biết hạnh phúc không thật mà chúng ta mơ ước nó hoài, thì mơ ước đó
trở thành hão huyền.
Khi chúng ta mơ ước một điều gì, nghĩ rằng khi được nó hạnh phúc biết
bao! Nhưng khi được rồi, còn hạnh phúc nữa không? Có gì hạnh phúc hơn, khi
làm mệt nhọc được nằm nghỉ một chốc lát, hạnh phúc biết mấy? Nhưng nếu bị bắt
buộc nằm một ngày, còn hạnh phúc hay không? Nếu nằm một ngày không được đi
đâu, lúc ấy cũng bực bội. Thành thử hạnh phúc không có thật, nó chỉ có trong một
giai đoạn nào thôi. Thí dụ chúng ta đang gánh gồng hết sức là nặng, nếu có ai đỡ
gánh dùm mình, lúc ấy chúng ta cảm thấy nhẹ bỗng lên, hạnh phúc biết mấy!
Nhưng nếu hết gánh rồi đi một lúc, chúng ta không còn thấy hạnh phúc nữa. Như
vậy hạnh phúc chỉ có trong chốc lát. Trong lúc khổ đau, qua được cơn khổ đau
tạm gọi là hạnh phúc. Hạnh phúc là do qua cơn khổ đau, chớ nó không có thật. Cái
không thật mà chúng ta tưởng chừng cả đời hưởng hoài thì làm sao có được.
Chúng ta hiện giờ mong mỏi ước mơ là mong mỏi ước mơ cái gì? Ước mơ
hạnh phúc. Ước mơ hạnh phúc là ước mơ được: một là ăn ngon, hai là mặc đẹp, ba
là được những nhu cầu sung túc, bốn là được tiền bạc dồi dào, năm là được gia
đình sung sướng vui vẻ v.v… Những điều ước mơ đó được rồi mất, không còn
nguyên vẹn mãi. Như vậy hạnh phúc có hay không? Chúng ta mong muốn những
điều đó phải lâu bền mãi mãi, nhưng trên thế gian này đâu có điều gì lâu bền mãi
mãi. Như vậy suốt cuộc đời mình bị chúng chỉ huy sai sử. Như mỗi sáng thức dậy,
chúng ta chuẩn bị lo cho bữa ăn sáng, rồi đến bữa trưa và bữa chiều. Chúng ta
chạy loanh quanh tìm kiếm những thức ăn cho vừa miệng, tức là suốt ngày chạy
theo cái thọ lạc của lưỡi. Những thức ăn vừa miệng khi để vào lưỡi có cảm giác
ngon, nhưng khi nuốt qua rồi cảm giác ấy không còn nữa. Như vậy mà chúng ta cứ
chạy theo cái thọ lạc, chạy mãi không có ngày cùng, cho đến ngày nhắm mắt cũng
chưa vừa ý.
Đến cảm thọ của lỗ mũi, lỗ tai, con mắt cũng vậy. Cái nhà nhìn thấy phải
đẹp, chậu hoa, chậu kiểng phải vừa mắt v.v… Như vậy con người chạy tìm cái thọ
lạc suốt cuộc đời không có ngày cùng. Thọ lạc là tạm bợ giả dối không thật. Đuổi
theo thọ lạc tức là gởi gắm, hiến dâng đời mình cho cái giả dối. Vậy mà chúng ta
thấy hài lòng chạy theo nó từ năm này sang năm khác, rồi cả một cuộc đời bị thọ
lạc của sáu căn sai sử. Cả một cuộc đời chạy theo thọ lạc, nếu có ai ngăn chận thì
nổi giận ngay. Thí dụ: Đi chợ thấy bó rau ngon, chúng ta vừa ngồi xuống lựa, chợt
có người đến mua trước, thì cãi vã nhau liền. Có chậu kiểng đẹp chưa kịp hỏi giá,
chợt có người khuân đi, chúng ta bực bội ngay. Chỉ vì thọ lạc của sáu căn mà
chúng ta giành giựt, hơn thua, tranh đấu với nhau cả đời không dứt. Có phải thọ
lạc đã chỉ huy lôi cuốn cả cuộc đời mình không? Cũng vì thọ lạc mà chúng ta phải
hận thù oán ghét lẫn nhau. Cảm thọ lạc nguyên là vô thường. Vì cái vô thường đó
chúng ta lại gây chuyện hơn thua, phải quấy, tranh giành với nhau, có phải là việc
làm đúng chân lý hay không? Vậy mà chúng ta bị nó chi phối hoàn toàn không
còn giây phút nào rảnh rỗi. Quí vị thường nói: cả ngày tôi không rảnh, là tại sao?
Chỉ vì đuổi theo thọ lạc: muốn ăn mặc vừa ý, muốn thấy nghe vừa ý v.v… rồi
chúng ta xoay quanh hết ngày này đến tháng kia không rảnh phút nào. Cảm thọ đã
chỉ huy cả một cuộc đời chúng ta, lại gây ra bao nhiêu hận thù đau khổ!
Ái cũng là nguồn gốc của khổ đau. Trong nhà Phật ái chia làm ba thứ:
1. Ái ngã.
2. Ái thân thuộc.
3. Ái sự nghiệp tiền của.
Ái ngã là khổ. Có ai không tự thương mình đâu, dù mình có xấu đi nữa, con
mắt lệch một bên hay lỗ mũi xẹp một chút, mình cũng thương mình. Nếu biết
mình đẹp, thì mình càng thương mình hơn nữa, ái ngã chặt hơn nữa. Vì thương
mình nên những gì mình muốn mà không được thì khổ. Như mình muốn trẻ nghe
nói già là rầu, mình muốn khỏe mạnh mà bị bệnh hoạn là khổ, mình muốn sống
lâu nghe nói sắp chết lại càng đau đớn. Vì quá thương mình cho nên bị bốn cái
sanh già bệnh chết làm khổ. Ái ngã là gốc của bốn khổ vậy.
Ái thân thuộc có hai cái khổ. Một là ái biệt ly khổ. Vì quá thương người
thân thuộc mà phải chia lìa nên chúng ta đau khổ. Có ái thì có tắng, tức là có yêu
thì có ghét theo sau. Nên người nào yêu nhiều thì ghét cũng nhiều. Vì yêu nhiều
nên người mình yêu mình thương tha thiết, người mình ghét mình cũng ghét đắng
cay không muốn nhìn mặt. Vì vậy mình khổ với người mình thương bao nhiêu,
mình cũng khổ với người mình ghét bấy nhiêu. Cho nên ái biệt ly khổ đi đôi với
oán tắng hội khổ. Đó là hai cái khổ do ái thân thuộc.
Ái tài sản sự nghiệp cũng là nguồn gốc của đau khổ. Có ai muốn gia sản
của mình càng ngày càng kiệt quệ đâu! Ai cũng muốn gia sản của mình càng ngày
càng to lớn. Muốn mà không được như ý thì đau khổ, tức là cầu bất đắc khổ.
Như vậy quí vị thử kiểm điểm lại có phải tám cái khổ của chúng ta đều nằm
trong ái mà ra: ái ngã, ái thân thuộc và ái sự nghiệp tiền của. Ái của mình cạn thì
tám cái khổ theo đó mà chết.
Thấy rõ gốc của đau khổ, chúng ta phải làm cách nào nhổ cái gốc đó lên.
Trong nhà Phật dạy muốn nhổ gốc của đau khổ, nghĩa là muốn dứt khổ, chúng ta
phải thấy rõ bản chất của thọ và ái cho tường tận. Thử hỏi quí vị cảm thọ khổ và
cảm thọ vui có thật hay không? Cảm thọ của sáu căn qua rồi mất, đâu có thật! Thí
dụ một bài hát thật là hay, khi nghe qua lỗ tai rất là thích thú, nhưng nghe hát qua
rồi mất, đâu còn mãi bên tai. Một thức ăn ngon ăn rất vừa miệng, nhưng khi qua
lưỡi rồi cũng mất, có còn mãi đâu v.v… Bản chất của tất cả cảm thọ là vô thường,
tức là tạm bợ giả dối. Biết rõ cảm thọ là vô thường giả dối, chúng ta ưng làm tớ
đuổi theo nó, hay muốn làm chủ không lệ thuộc vào cảm thọ? Nếu giành được
quyền làm chủ cảm thọ thì vui, nếu bị cảm thọ làm chủ thì khổ. Quí vị nên can
đảm chọn quyền làm chủ cảm thọ thì trọn một năm nay nhất định quí vị hết khổ,
hoàn toàn an lạc.
Bản chất của ái có thật hay không? Ái là thương, thương yêu là nghĩ tới
thân này nó lâu dài bền bỉ, nhưng bản chất của thân là vô thường. Thương yêu nó
chỉ là thương yêu cái tạm bợ mà thôi. Thương yêu sự nghiệp cũng vậy, sự nghiệp
là vô thường, thương yêu thân thuộc, thân thuộc cũng là vô thường. Những điều
mình thương yêu đó đều vô thường, không có bền lâu. Chúng ta lại thương yêu
những cái vô thường hay sao? Hay là chúng ta thương yêu cái gì lâu dài vĩnh cửu?
Thí dụ khi đi chợ mua những vật cần dùng quí vị chọn những thứ bền tốt hay
những thứ tạm tạm xài vài ba hôm rồi lại hư? Dĩ nhiên chúng ta lựa những vật
dùng bền tốt, những gì tạm tạm chúng ta không mua. Cũng như vậy, biết thân là
vô thường, sự nghiệp là vô thường, những người thân thuộc là vô thường chúng ta
ôm ấp thương yêu chúng nó để làm gì? Khi những giọt mưa từ mái nhà rơi xuống
nổi lên những bong bóng lóng lánh, quí vị thương chúng nó hay không? Nếu
thương, chúng nó bể thì sao? Bong bóng nước cũng lóng lánh, hạt kim cương cũng
lóng lánh, cả hai đều lóng lánh, quí vị thương cái nào hơn? – Thương hạt kim
cương hơn, tại sao? Vì nó lâu bền. Chúng ta thương cái gì lâu bền. Như vậy thân
này vô thường, sự nghiệp vô thường, những người thân thuộc của mình cũng vô
thường thì mình phải thương hay không? Mình thương cái nào không vô thường,
cái giải thoát không sanh tử, đó mới là cái mình thương. Những cái vô thường
chúng ta thương hoài cũng không được gì, vì chúng nó sẽ hoại và sẽ mất. Chúng ta
đeo đuổi cưu mang cái vô thường, hay đeo đuổi cưu mang cái thoát khỏi vô
thường? Có một cái thoát khỏi vô thường chúng ta không thương, lại thương cái
vô thường làm gì?
Chúng ta học đạo phải dùng trí nhận xét thấy cái gì bản chất là vô thường là
tạm bợ thì cái đó không có giá trị, qua rồi mất mà có giá trị gì! Đã không giá trị,
chúng ta đeo đuổi, cưu mang nó làm gì? Cái làm cho mình được mãi mãi an vui tự
tại giải thoát, cái đó mới là chân thật. Biết cái vô thường rồi, chúng ta phải xoay lại
cái chân thật vĩnh cửu. Khi trước, chúng tôi hay kể câu chuyện: “Cô công chúa
nũng nịu.” Thuở xưa có cô công chúa rất được vua cha yêu quí. Một hôm nhân
buổi trời mưa, công chúa ngồi nhìn những giọt nước từ mái nhà rơi xuống, làm nổi
lên những bong bóng rất đẹp, công chúa thích quá nhưng không nói, vì bản chất
hay làm nũng công chúa vào phòng nằm, mặt mày ủ dột. Nhà vua có công chúa là
con duy nhất, thương con vô cùng. Đến giờ cơm, thấy con không ra dùng bữa, nhà
vua nóng ruột vào phòng thăm hỏi: Con ốm hay sao, không ra dùng cơm? Công
chúa không trả lời. Đến lượt hoàng hậu vào năn nỉ, công chúa cũng không đáp lại.
Hỏi han nài nỉ mãi, sau cùng công chúa nũng nịu thưa: “Con muốn có xâu chuỗi
bong bóng nước đeo vào cổ, con mới hết bệnh.” Vua cha chiều con rất mực. Nghĩ
mình là vua muốn gì lại chẳng được, nhà vua bèn ra lịnh cho tất cả quần thần: “Ai
kết được xâu chuỗi bằng bong bóng nước cho công chúa đeo thì sẽ được phong
quan tước, chia đất đai cho.” Đăng bảng lâu ngày mà không ai dám lãnh. Sau cùng
có một ông lão đến gỡ bảng, nhận xâu một chuỗi bong bóng nước cho công chúa
đeo. Ông lão được giới thiệu với công chúa. Nàng rất đỗi vui mừng nói: “Nếu lão
xâu cho tôi chuỗi bong bóng nước để đeo, tôi sẽ hết bệnh ngay.” Ông lão nói:
“Thưa thật với công chúa, tôi già, con mắt lờ, nên lựa không được những hạt bong
bóng đẹp. Vậy ngày mai, khi trời mưa, tôi mời công chúa ra mái hiên chọn những
hạt bong bóng nào đẹp nhất, công chúa lượm đưa tôi xâu cho.” Sáng hôm sau, trời
mưa, ông lão và nàng công chúa ra mái nhà, những giọt mưa từ trên rơi xuống nổi
bong bóng, công chúa đưa tay vớt lấy…, vớt mãi đến trưa mà không được hạt nào!
Ông lão đứng chờ, chờ mãi không có hạt bong bóng nào để xâu! Cuối cùng, quá
mệt mỏi công chúa nói: “Thôi, tôi không thích bong bóng này nữa.” Nhà vua
mừng quá bảo: “Để ta cho con xâu chuỗi bằng kim cương con đeo.”
Ý nghĩa câu chuyện vừa kể như thế nào?
Tất cả chúng ta có phải là công chúa đó không? Chúng ta cứ nắm bắt những
ảo ảnh vô thường, nắm bắt mãi cả đời mệt nhoài mà chẳng được gì. Rồi chúng ta
vào chùa cầu xin Phật cứu con. Đức Phật sẵn lòng từ bi cứu độ, cho chuỗi kim
cương thứ thiệt. Chúng ta chỉ chịu nhận thứ thiệt khi nào chúng ta đã mệt nhoài
với những thứ tạm bợ hư dối. Đức Phật tuy lấy ví dụ một câu chuyện rất trẻ nhỏ
nhưng đúng với bệnh của chúng sanh. Chúng ta giống y nàng công chúa đó. Khi
chúng ta thức tỉnh biết trở về với Phật, Phật sẽ chỉ cho chúng ta cái chân thật. Nếu
chúng ta sống được với nó, cái chân thật ấy còn mãi, không bao giờ mất.
Người Phật tử muốn hết khổ phải thấy rõ bản chất của đau khổ không có
thật. Bản chất của đau khổ là ái và thọ, cả hai đều không thật. Càng đuổi theo
chúng càng đau khổ thôi. Nếu biết dừng lại, đau khổ sẽ bớt từ từ cho đến một ngày
nào chúng ta lìa hẳn nó, không còn đau khổ nữa.
Nhân nghe câu nào trong kinh Kim Cang mà Lục Tổ ngộ đạo? Trong kinh
Kim Cang, Phật dạy phương pháp an trụ tâm: “Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng
trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.” Ngay
đây Lục Tổ ngộ, rồi từ đó về sau Ngài hết khổ luôn. Muốn sanh tâm cầu Vô
thượng bồ-đề thì đừng dính với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Sáu trần không
dính là an trụ tâm. Đó là hạnh phúc tuyệt vời. Nếu còn dính với sáu trần là còn bất
an, còn đau khổ. Nếu chúng ta không kẹt không chấp vào cảm thọ của sáu căn, tức
là chúng ta được giải thoát.
Cũng chính trong kinh Kim Cang đức Phật có dạy: “Phàm sở hữu tướng
giai thị hư vọng, nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Những gì có
tướng đều là vô thường, vô thường là tạm bợ, hư dối. Nếu thấy các tướng không
phải tướng là thấy Phật. Tại sao? Tỉ dụ hiện giờ thấy một món vật đẹp, chúng ta
biết rõ nó là duyên hợp hư dối; một vật gì quí, nó là duyên hợp hư dối, một thức
ăn ngon, nó là duyên hợp hư dối. Biết rõ được như vậy, đó là có trí tuệ giác ngộ.
Trí tuệ giác ngộ tức là Phật. Thấy tất cả tướng không phải tướng tức là thấy tất cả
vật đều không thật, tất cả đều là duyên hợp hư dối. Thấy rõ như thế là thấy Phật,
không phải tìm Phật ở đâu xa. Nếu thấy Phật thì hết khổ.
Để kết luận chúng tôi xin nhắc tất cả quí vị, nếu muốn hết khổ chúng ta
phải biết rõ bản chất của thọ và ái là vô thường, hư dối. Chúng ta phải diệt hết, nhổ
sạch gốc của thọ và ái, thì ngang đó chúng ta được an lạc. Niềm vui không phải từ
bên ngoài đem đến, không phải do sự giàu sang sung sướng lắm tiền nhiều của, mà
vui vì biết phá bỏ những mê chấp sai lầm. Buông bỏ những sai lầm, đó là trí tuệ
tỉnh giác, đó tức là Phật. Tu theo Phật cốt để giác ngộ. Giác ngộ cho nên không
lầm không mê, tức nhiên không khổ. Hết ngu mê là sáng suốt, sáng suốt tức là hết
khổ.
Nhân ngày đầu xuân năm Đinh Mão, tất cả quí vị đến đây lễ Phật và chúc
mừng quí Thầy, quí Thầy cũng chúc tất cả quí Phật tử sang năm mới này hãy can
đảm bỏ đi những chấp thọ và buông đi những ái trước. Chấp thọ và ái trước buông
bỏ thì nguồn đau khổ cạn, gốc đau khổ được bứng tung lên, ngang đó quí vị sẽ hết
khổ. Vì vậy chúng tôi chúc quí vị một năm mới hoàn toàn an lạc sau khi bứng tận
cội gốc khổ đau.
NAM-MÔ BỔN SƯ THÍCH-CA MÂU-NI PHẬT.
􀁄

0 comments:

Post a Comment