Lỗi người
dễ thấy biết bao
Lỗi ta
khó thấy ai nào muốn khui,
Lỗi người
cứ cố phanh phui
Như tìm
trấu lẫn trong nồi gạo kia
Lỗi ta
lại dấu diếm đi
Tựa người
săn bắn muốn che dấu mình
Hay như
con bạc cố tình
Cờ gian
bạc lận lưu manh dấu bài.
Dhammapada stanza 252
- Kinh
Pháp Cú - Câu 252 (1)
Nếu ta
thấy được lỗi người
Tâm ta
nóng giận tức thời dễ sinh
Tăng thêm
phiền não thật nhanh
Xa lìa an
tịnh, quẩn quanh muộn sầu,
Lỗi người
chẳng để tâm lâu
Còn chi
sầu muộn, còn đâu não phiền.
Dhammapada stanza 253
Kinh
Pháp Cú -Câu 253 (2)
(2) Kinh
Pháp Cú (Dhammapada), Tâm Minh Ngô Tằng Giao chuyển dịch thơ, Diệu Phương
xuất bản 2003
Hai câu
kệ từ kinh Pháp Cú được nói đến ở đây có tính cách phổ quát thích hợp cho
tất cả, và có thể giúp phát sinh các trí tuệ đáng kể. Trước hết là câu kệ:
“Dễ thay
thấy lỗi người
Lỗi mình
mới khó thấy
Lỗi người ta phanh tìm
Như sàng
trấu trong gạo
Còn lỗi
mình che đậy
Như kẻ
gian dấu bài”
Ở đây,
khuynh hướng che dấu lỗi lầm của chúng ta cũng giống như một thủ đoạn lừa
đảo, vì chính thật là ta không thành thật với bản thân. Tuy nhiên, chấp
nhận con người thật của mình rất khó, nhất là khi nói về lỗi lầm của mình,
vì sự đánh giá bản thân của ta luôn sai lạc - hoặc là quá cao hay quá
thấp. Phương cách tốt nhất để có được một cái nhìn rõ ràng và thực tế về
bản thân là tự soi xét mình với chánh niệm.
Thấy lỗi
của người thật không khó vì chúng thường làm ta khó chịu, và trong trạng
thái tâm tiêu cực này ta cho rằng những gì ta nghĩ là đúng và ta có quyền
phán đoán người. Đó là lý do khiến chúng ta phê bình hấp tấp, rồi quên
rằng những suy nghĩ của mình chỉ dựa trên ý kiến riêng của chính mình, nên
không thể nào hoàn toàn khách quan. Ở một mức độ nào đó, tất cả các quan
điểm của chúng ta đều sai lạc, vì chúng khởi nguồn từ ảo tưởng về bản ngã
của ta: ‘Tôi có, tôi muốn, tôi sẽ, tôi tin rằng, tôi biết, tôi nghĩ.’
Những quan điểm của chúng ta có thể đúng một cách tương đối, nhưng chân lý
tương đối không bao giờ đủ để khiến ta hoàn toàn thõa mãn, vì cuối cùng
thì nó cũng chỉ thể hiện sự thật của một bản ngã đối chọi với một bản ngã
khác. Một người tin thế này, người khác tin thế kia; người làm cách này,
người khác làm cách hoàn toàn ngược lại. Chân lý xây dựng từ ý niệm của
một bản ngã không thể nào là chân lý tuyệt đối và hoàn toàn. Nhiều lắm, nó
chỉ thể hiện sự lựa chọn của cá nhân. Chân lý tương đối không thể nào hơn
thế được.
Nhìn từ
quan niệm chân lý tuyệt đối thì hoàn toàn khác. Từ góc nhìn này, chúng ta
bắt đầu ý thức được rằng lỗi của người mà ta quan tâm đến cũng cần được
nhìn thấy nơi ta. Lỗi của người là phản ảnh của lỗi nơi ta, nếu không ta
đã không thể nhận biết chúng. Khi thấy ai giận dữ hay khoe khoang, chúng
ta nhận ra những khuyết điểm này từ kinh nghiệm của bản thân. Chúng ta
biết những cảm xúc này từ đâu đến và tác động của chúng như thế nào.
Tương tự, người ta nói chỉ có Phật mới nhận ra Phật, vì chỉ có Đấng Giác
Ngộ mới biết được sự giác ngộ.
Khi chúng
ta ý thức rằng mình đang phê bình người khác, chúng ta cần ngay tức khắc
biết mình sai rồi. Những lời chỉ trích của chúng ta sẽ không có lợi ích
gì; suy cho cùng, có ai đã sữa đổi khi bị bới móc đâu? Nói xấu người khác
luôn có hại, phần lớn là cho mình. Chúng ta biết người khác cũng có thể
khó chịu với ta, và nếu ta phản ứng bằng sự giận dữ, hờn oán, thì ta có
thể rơi vào vòng sân hận dữ dội hơn bao giờ hết, và có thể mất một người
bạn.
Vậy thì
chỉ trích không có lợi – nhưng nhận lỗi thì trái lại. Ví dụ, nếu chúng ta
thấy một người nào đó không có chánh niệm, thái độ đúng đắn sẽ là ‘Tôi tự
hỏi không biết lúc này tôi đang chánh niệm thế nào?’ Đó là phản ứng đáng
kể duy nhất. Nếu chúng ta quan sát thấy một ai đó lầm lỗi, và muốn chỉ
trích, ta nên tự nhắc mình là phê bình người khác sẽ có hại cho mình.
Khi để
cho sự phê bình, chỉ trích lập đi lập lại và trở thành một thói quen,
chúng ta đã khắc sâu những nếp tiêu cực vào bên trong. Chắc là trong
chúng ta ai cũng biết một người nào đó có tánh hay phê bình, chỉ trích, và
khi nghe họ nói chuyện thì thật là bực mình. Vì vậy, chúng ta phải cẩn
thận trong việc chỉ trích, và tránh tạo thói quen xấu nơi kẻ khác. Chúng
ta cũng nên ý thức rằng, cứ mỗi khi chỉ trích ai, chúng ta dần dần tạo cho
mình một thói quen xấu.
Ngược
lại, nếu nhân cơ hội đó chúng ta quan sát chính xác điều gì đang xảy ra
với người khác, chúng ta có thể sử dụng sự nhận xét về các hành vi của họ
như một tấm gương cho bản thân. Đây là một tấm gương rất giá trị, vì tuy
rằng nó không thể cho ta thấy hình dáng thể chất của mình, nó có thể giúp
ta dấn thân vào một nhiệm vụ khó khăn hơn nhiều của việc tự biết mình.
Trách vụ này khó không những vì chúng ta thiếu nhận thức, nhưng chính là
vì chúng ta thích như vậy – chúng ta thường không muốn biết sự thật; chúng
ta lo lắng tìm cách lẫn tránh nó vì chúng ta sợ sự thật sẽ làm ta đau
lòng.
Hai trong
số tám hiện tượng phổ quát được nhắc đến ở đây: khen và chê trách. Bận
tâm để được khen và tránh bị chê trách rõ ràng là hơi lố bịch, nhưng chúng
ta chưa bao giờ thật sự ý thức được điều đó. Thêm nữa, hai điều này chính
là lý do khiến chúng ta miễn cưỡng trong việc tự hiểu mình: chúng ta sợ sẽ
tìm ra những điều về bản thân mà ta có thể phải chịu sự chê trách. Chúng
ta vẫn thích mang vải che mắt và tránh cái nhìn toàn diện về bản thân.
Sự sợ bị
khiển trách có thể được giải quyết bằng công thức ‘chấp nhận, không trách
móc, sửa đổi.’ Bước đầu tiên là ý thức được sự sợ bị khiển trách, sợ sự
bất đồng ý kiến, thiếu hổ trợ, và sợ không được quý trọng.
Gốc rễ
của tất cả mọi nỗi sợ hãi là sợ không hiện hữu. Sự sợ hãi này ẩn chứa
trong tiềm thức của mỗi người chúng ta, và nó có thể dấy lên trong cơn
hoảng hốt chỉ vì chúng ta không muốn chịu sự khiển trách. Ngược lại, chúng
ta luôn sẳn sàng trách người khác, với lòng tin rằng điều đó không làm hại
đến mình. Nhưng chúng ta đã lầm; vì để cho tiêu cực chế ngự, chính ta mới
là người đau khổ.
Sự sợ hãi
bị khiển trách cũng giống như sợ chết, hay là sự sợ cho cái tôi, cái tự
ngã. Xét cho cùng, đó là sự sợ hãi không còn được hiện diện trên thế gian
này nữa. Dĩ nhiên, khi dự đoán phải bị trách móc, chúng ta không sợ thực
sự bị tan biến đi ngay tại chỗ, mà chỉ sợ đánh mất sự tự mãn, là điều tùy
thuộc nơi sự quý trọng của người.
Việc này
rõ ràng thật điên rồ, nhưng đa số đều hành động như vậy, và có người còn
tệ hại hơn, đến độ luôn phải cố gắng làm hài lòng tất cả mọi người. Nhưng
làm sao chúng ta có thể hy vọng làm được việc này? Trước hết là chúng ta
không biết tình cảm hay ước muốn của người khác như thế nào. Thế nhưng,
tuy chúng ta không thể làm hài lòng tất cả, chúng ta có thể luôn cố gắng
làm những gì tốt đẹp nhất.
Trên
thực tế chúng ta ai cũng muốn được xưng tụng, khen ngợi. Mọi việc ta làm
đều hướng về mục đích này, nhưng nếu quá bức xúc với mong muốn này, chúng
ta sẽ bị sự sợ hãi chế ngự, khiến ta không có cái nhìn khách quan. Nói
cách khác, chúng ta sợ bị chỉ trích. Để có thể loại bỏ sự sợ hãi này,
chúng ta nên bắt đầu bằng cách tự mình cố gắng không quá phê phán, vì biết
rằng những gì mình làm sẽ quay lại với mình, như vũ khí săn bắn tên
boomerang (3) của người thổ dân châu Úc.
Bước đầu
tiên đi đến sự hiểu biết về luật nhân quả - là những điều có thể quan sát
được khắp nơi trong vũ trụ - không đủ để giúp ta vượt qua tất cả sợ hãi.
Bước thứ hai liên hệ đến sự hiểu biết về bản chất của sự sợ hãi. Trong
cuộc truy tìm sự chấp nhận của tha nhân, chúng ta trở thành nô lệ của môi
trường chung quanh mình. Ngày nào môi trường này còn không được như ý
mình, hay không vĩnh viễn làm cho mình cảm thấy tuyệt vời, thông minh, đẹp
đẽ, chúng ta sẽ còn tiếp tục cảm thấy không thoải mái. Một thái độ như
thế sẽ khiến cuộc sống của ta vô cùng khó khăn, và ngăn trở sự tiến đến
việc tự biết mình.
Ngược
lại, sự tự biết mình thật trung thực rất cần thiết để giúp chúng ta buông
xả, kể cả buông xả sự lo sợ bị chê trách. Chúng ta chỉ có thể buông xả
những gì tự mình đã nhận thức rốt ráo, cũng không cần thiết phải hoán
chuyển sự sợ hãi bị chê trách thành sự sợ tự biết mình; việc chúng ta có
thể buông xả cái ngã sau khi đã hiểu được nó, không có nghĩa là ta đã
chết. Nó chỉ có nghĩa là sự vị kỹ (self-centredness) không còn là quyền
lực tối ưu trong cuộc đời ta. Mọi việc không nhất thiết phải luôn theo
như ý mình. Thay vào đó, chúng ta dành một khoảng không gian bên
trong ta cho những gì thật sự đúng. Chúng ta rồi sẽ hiểu rằng vì có những
uế nhiễm trong mọi khía cạnh của đời sống hữu lậu, nên sẽ không bao giờ
tìm được gì toàn hảo bất kỳ ở nơi đâu.
Dụng cụ bằng
gỗ của thổ dân Úc, có nhiều hình dáng, kích cỡ, sử dụng cho nhiều mục
đích. Có đặc tính là khi vứt đúng cách, nó sẽ quay trở lại hướng người
vứt.
Chỉ cần nhìn
vào khía cạnh của vô thường: tất cả những gì đến rồi phải qua đi, không có
gì là trường cữu. Nếu chúng ta cố bám víu vào một kỹ niệm nào đó, nó sẽ
như cát rơi xuống khỏi lòng bàn tay ta. Dĩ nhiên, tính chất luôn biến đổi
của sự vật đôi khi trở thành lý do cho sự chê trách, nhất là khi người
khác làm cho mình thất vọng vì lỗi hẹn hay không làm xong việc ta giao
phó.
Không ai
lại đi chỉ trích một ngôi sao trong bầu trời khi nó trở thành một sao băng
sáng rực rồi tan biến đi – chúng ta biết trách móc như thế thật là vô
nghĩa vì nó chỉ là một hiện tượng thiên nhiên. Nhưng trong thực tế đây là
bản chất thật sự của vạn vật, nên khi ta than phiền về tính biến thiên của
tất cả mọi thứ khác trong vũ trụ thì cũng vô nghĩa như vậy. Tất cả những
hiện hữu có điều kiện đều không toàn hảo.
Đây là lý
do tại sao chúng ta nên nhìn lại mình mà không sợ hãi, và xét xem những gì
chúng ta không thích ở người. Chúng ta không thích thói xấu của họ? Ta
nên tự xét lại các thói xấu của mình. Ta không thích tính luôn muốn được
chú ý tới của họ? Có thể ta cũng muốn là trung tâm của vũ trụ? Bằng cách
này, chúng ta sẽ ngày càng biết rõ mình hơn.
Tất cả
chúng ta đều biết những nỗi sợ hãi luôn dấy khởi, khi thử trắc nghiệm như
sau: ‘Có lẽ mình không phải là người tốt như mình nghĩ – và nếu mình
không được tốt như vậy, người khác sẽ chê trách mình.’ Tôi gọi đây là
‘lối suy tư hướng về kết quả’; chúng ta thấy rất sợ hãi vì sự đe dọa này,
như là bị roi quất vào người, khiến thân xác đau đớn. Chúng ta muốn rằng
mọi việc phải thật đúng, thật toàn hảo. Nhưng ta muốn điều gì hoàn hảo
chứ? Trong vũ trụ này, vạn vật tiến hành theo lề lối riêng của nó, và cứ
liên tục như vậy. Sông chảy, nếu ta ngăn chúng lại sẽ gây ra lũ lụt.
Cuộc sống tiếp diễn, khi ngày này hết thì một ngày mới lại bắt đầu. Tại
sao chúng ta không đặt mình vào dòng luân lưu của vạn vật, và hãy thôi
nghĩ đến việc phải mang vào dòng luân lưu này tất cả những gì toàn hảo?
Điều này
có thể áp dụng trong việc hành thiền cũng như với bất cứ chuyện gì khác.
Dầu ta có thể đang ngồi lặng yên trên gối thiền, không bị ai nói gì hay
phê phán gì, nhưng ta vẫn đang tạo áp lực cho bản thân, khiến trở ngại
việc hành thiền. Nếu nghĩ rằng việc hành thiền phải toàn hảo thì chúng ta
sẽ không thể thiền quán mà luôn đương đầu với lo âu.
Thật là
vô ích khi mong muốn làm tất cả mọi việc toàn hảo; chúng ta chỉ có thể cố
gắng làm hết sức mình. Chúng ta cũng sẽ vui hơn nếu bỏ được ước muốn được
người khác biết ơn. Dĩ nhiên, nếu có ai tỏ lòng biết ơn, cảm kích, hay
hoan hỷ vì những gì mình đã làm, thì đó cũng là điều tốt, nhưng là tốt cho
họ.
Chúng ta
nên nhớ rằng mình cũng luôn thay đổi. Năng lượng và năng lực của chúng ta
lên xuống liên tục. Điều này cũng đúng trong việc hành thiền. Đôi khi tâm
trí ta có thể tập trung rất nhanh; những lúc khác, có thể vì phải gạn bỏ
quá nhiều tư tưởng nên phải mất cả giờ đồng hồ mới tìm được sự tĩnh lặng.
Khả năng tập trung hay phân tán tư tưởng này thường do ta liên tưởng đến
'cái ngã' – ta tự gây ra cho mình- nhưng tại sao ta cảm thấy cần thiết
phải làm vậy? Tất cả cũng vì tâm ta không ngừng thay đổi.
Nếu chúng
ta có thể thấy mọi thứ biến chuyển trong ta như thế nào thì ta sẽ có thể
kết luận ở người cũng thế. Nếu ai đó cư xử không phải phép, chúng ta phải
mừng rằng họ sẽ thay đổi, hy vọng là tốt hơn. Vậy thì, càng chánh niệm về
lẽ vô thường - nhất là sự vô thường của những hành động xấu – chúng ta sẽ
thấy dễ buông bỏ tánh vạch lá tìm sâu, tìm lỗi của người nữa.
Như chúng
ta đã thấy, những gì ta chê trách nhất ở người là những tính cách ta cũng
ít thích nhất nơi bản thân. Chúng ta cũng đã thấy rằng nếu thỉnh thoảng
ta bỏ thì giờ để quán sát, tìm hiểu các thói xấu này, ta có thể nỗ lực
khắc phục được chúng. Tuy nhiên, trong tiến trình này, chúng ta có thể
phải chịu sự chỉ trích khắc khe, vì trong lúc những hành vi ta đang quan
sát có thể giống hành vi của ta, người mà ta đang chỉ trích có thể không
nỗ lực để cải thiện chúng như ta. Một thái độ như vậy tạo ra rất nhiều va
chạm trong sự liên hệ giữa người với người; điều này không nhất thiết được
biểu lộ ra ngoài, dầu vậy ta vẫn chất chứa cảm giác không tán thành, chống
đối. Chúng ta nên luôn luôn cố gắng chấp nhận tha nhân, và cố kiềm chế sự
phê bình họ. Điều này cũng ứng dụng với chính mình nữa. Chúng ta không
nên bắt bẻ, bới móc lỗi người, mà hãy luôn tự nhắc mình nhớ đến công thức,
‘Chấp nhận, không trách móc, sửa đổi.’
Trong
phần đầu –soi thấu rõ được bản thân– là phần khó nhất. Phần thứ hai
–không trách móc– cũng không dễ thực hiện, vì tâm ta tự động có phản ứng
tiêu cực đối với bất cứ cảm giác khó chịu nào. Tất cả những gì chúng ta
không thích về mình -tất cả những gì ta không thể chấp nhận và muốn thay
đổi - tạo ra những cảm giác khó chịu và tự trách, rồi con đường đi đến tự
giác có thể biến mất khỏi tầm nhìn.
Sự thấu
hiểu về vô thường giúp ta dễ dàng quán chiếu bản thân. Khi đã rõ rằng mọi
vật ta đang thấy trước mắt biến mất đi ngay lúc đó, thì việc tránh không
tự trách mình sẽ trở nên dễ dàng hơn. Tất cả mọi vật đến, sẽ đi và không
trở lại nữa – và không có gì đến sau đó sẽ giống như cái đến trước, dù
chúng có vẻ giống nhau đến đâu. Bằng cách quán sát vô thường như thế, ta
có thể bắt đầu sẳn sàng chấp nhận bản thân và tha nhân hơn.
Nhận thức
được bản chất thật sự của những gì mà ta chê trách ở người giúp ta có cái
nhìn mới mẻ về bản thân. Chúng ta dứt bỏ được những gì làm mình khó chịu
không phải bằng cách quay lưng lại với người có các lỗi này, nhưng bằng
cách không còn bắt người khác chịu trách nhiệm vì họ không như ý ta muốn.
Trong
tiến trình này chúng ta có thể nhận thức được cả vô thường và khổ đau. Ý
thức được rằng khổ đau đến từ chính những phản ứng tiêu cực của mình,
trong đó có cả sự sợ bị chỉ trích, sẽ giúp ta dễ kiềm chế việc phê bình
tha nhân. Chúng ta có thể thấy rõ rằng hầu như mọi người đều biết nỗi bất
an do không được ủng hộ, chấp nhận, và rằng sự lệ thuộc nơi người khác
thật vô cùng khó chịu.
Làm sao
chúng ta biết người khác nhận xét về mình có đúng không? Chúng ta có bao
giờ thức tỉnh để biết rằng tất cả đều bị kẹt trong cái bẩy ảo tưởng khiến
không thể nào ta có được một quan điểm thật sự khách quan? Ảo tưởng đó là
tất cả chúng ta đều là những cá thể riêng biệt và rằng nếu đủ khôn ngoan
để sắp xếp mọi thứ đúng cách, ta có thể có những sự dễ chịu riêng.
Tất cả
mọi người đều sống với ảo tưởng này, khiến họ khao khát hiện hữu và lo sợ
bị hủy diệt. Vậy thì làm thế nào để người khác xác nhận sự hiện hữu của
chúng ta? Mọi sự sợ hãi phản ảnh nỗi sợ hãi bị hũy diệt. Sự sợ hãi không
chỉ giới hạn trong sự sợ cho sự hiện hữu của thân xác, mà bao gồm cả sự
hiện hữu của cảm xúc, sự xác định của bản ngã. Nhưng nếu ý thức được sự sợ
hãi này, chúng ta cũng có thể phát triển một sự cảm thông sâu sắc đối với
tha nhân, vì tất cả nhân loại đều khát khao sinh tồn khiến phát sinh nỗi
khổ đau lớn lao nhất.
Nỗi sợ
hãi với gốc rễ đã ăn sâu này làm cho con người không thể hoàn toàn được
mãn nguyện, và một khi đã hiểu được sự tương quan này, chúng ta sẽ không
còn đi tìm sự mãn nguyện một cách sai lầm nữa. Thay vào đó, chúng ta sẽ cố
gắng chuyển hóa những khó khăn của kiếp con người do ngã tưởng gây ra.
Tuy nhiên, trước hết chúng ta phải nhận diện được nỗi lo sợ của việc tự
soi xét một cách chân thực, cùng với nỗi lo sợ bị người khác chê trách, và
ý muốn chỉ trích lại, tất cả là do sự thúc đẩy của nhu cầu muốn tâng bốc
tự ngã. Khi kết tội người khác, ta cảm thấy dễ chịu hơn. Nếu chấp nhận
rằng tất cả chúng ta ai cũng có khiếm khuyết, thì ta tiến gần đến sự thật
hơn.
Nhận thức
này đưa ta tiến xa hơn đến sự hiểu biết về những thiếu sót cơ bản của sự
hiện hữu ở cõi nhân sinh hữu lậu này. Chỉ khi nào chúng ta ý thức được sự
khiếm khuyết này thì ta mới cảm thấy thôi thúc phải vượt lên trên cõi này
– dĩ nhiên không nói về thể chất, nhưng trong ý nghĩa để buông bỏ được ngã
tưởng. Những khó khăn chúng ta đã vượt qua sẽ không còn quấy nhiểu ta
nữa, và chúng ta sẽ đạt được tri kiến về những vấn đề khác đang còn gây
khó khăn cho ta. Chúng ta sẽ có thể thấy là mình chưa chuyển đổi được các
vấn đề khi chúng vẫn còn phiền nhiểu ta. Chẳng hạn như, khi đọc những tin
tức không hay và ngay lập tức cảm thấy lòng ta đầy bực tức, ta có thể tự
biết rằng mình chưa bỏ hết được những tham lam, sân hận của mình. Thế
giới vẫn còn đầy bao biến động, nhưng bực bội, kết tội chỉ cho thấy là sân
hận vẫn còn đầy trong ta.
Chúng ta
sinh ra với sáu gốc rễ -ba rễ tốt và ba rễ xấu– thế nên việc lên án bản
thân hay tha nhân thật là vô ích. Vấn đề là nhận thức được bản chất của
những gốc rễ này, và tự nguyện hỗ trợ cho những rễ tốt phát triển, đồng
thời làm giảm bớt các rễ xấu.
Dĩ nhiên,
các gốc rễ xấu là tham, sân, và si (vô minh trong ý nghĩa về ngã tưởng).
Những đối nghịch của chúng cũng rất quen thuộc với chúng ta. Nếu chúng ta
có thể thấy ba gốc rễ thiện - bố thí, tình yêu thương vô điều kiện, và trí
tuệ - nơi tha nhân, thì ta có thể kết luận rằng chúng cũng có mặt trong
ta. Thực ra, chúng ta biết rất rõ ràng phải thực hành khi nào, ở đâu và
như thế nào. Ngôn từ và giới luật, tự chúng, không bao giờ đủ cả, nhưng ta
đã có đủ trí tuệ trong ta để cảm nhận được sự thật khi nghe đến nó, và
biết có thể tìm được nó ở đâu.
"Ai
thấy lỗi của người
Thường
sanh lòng chỉ trích
Người
ấy lậu hoặc tăng
Rất xa
lậu hoặc diệt”
(2)
‘Dứt
bỏ tham muốn’ là một cụm từ khác để chỉ sự hoàn toàn thanh lọc. Có nghĩa
là tham sân không còn có mặt, và khi chúng đã bị hủy diệt thì ta đã đến
rất gần với sự giác ngộ hoàn toàn. Cho đến lúc đó, theo những lời Đức
Phật dạy rất rõ ràng này, chúng ta cần phải nỗ lực luyện tâm, vì khi nào
chúng ta còn chê trách, chúng ta sẽ không ý thức được những động cơ thật
sự của mình và không thể sửa đổi chúng.
Các động
cơ này chính là hai cội rễ của tham và sân. Cả hai khởi nguồn từ vô minh,
tăm tối, từ ảo tưởng đưa ta đến việc tin rằng thật sự có ‘một ai đó’. Nói
một cách tương đối, rõ ràng là chúng ta đang ngồi đây trên gối thiền,
nhưng dựa trên chân lý tuyệt đối thì hoàn toàn khác. Khi ta còn sống theo
chân lý tương đối, khi 'tôi’ hiện hữu trong tương quan với ‘anh’, chúng ta
tự thấy mình tách biệt với tha nhân, nên muốn tự bảo vệ bằng cách xây
những bức tường quanh mình. Chúng ta dựa vào những động cơ này để làm như
vậy, và bất cứ khi nào chúng ta còn tiêu cực, thì các động cơ này càng
thêm cường độ.
Đây là lý
do khiến cho việc luôn quan sát một cách chánh niệm các phản ứng tình cảm
của mình trở thành rất quan trọng - giữ chánh niệm về chúng không ngừng,
khi chúng xảy ra, ngay cả khi ta không thể buông bỏ được chúng. Một khi
ta đã nhận biết được các phản ứng này, ta cũng nhận thấy chúng gây ra bao
bồn chồn, và do đó rất độc hại cho sự an tĩnh mà ta cần có để hành thiền.
Trong đời sống hằng ngày, thật không dễ gì thấy được sự khác biệt giữa một
tâm tĩnh lặng và một tâm lăng xăng, nhưng khi hành thiền qua một thời
gian, sự khác biệt này sẽ rõ ràng hơn. Ta sẽ thấy rằng những phản ứng của
ta không chỉ gồm có chỉ trích mà thôi; gốc rễ của chúng có thể được truy
trở về từ tham ái, sân hận, và từ sự sợ hãi.
Theo Đức
Phật, dục vọng của ta tăng lên khi ta thấy lỗi của người, và tự cho phép
mình có những phản ứng tiêu cực, vì điều này củng cố thêm tâm phân biệt
của chúng ta, và tâm này càng làm cho ngã tưởng thêm sâu dày. Ngược lại,
các mối liên hệ của ta với người cũng có thể giúp ta có được sự hiểu biết
sâu sắc hơn, nếu ta ý thức rằng tha nhân cũng phải tuân theo luật vô
thường, khổ đau, và bất như ý như bản thân ta. Thực ra, chúng ta nên xem
các tương quan với người như là những cơ hội để tu tập, và nếu biết sử
dụng chúng, ta sẽ được những lợi lạc từ một hệ thống giáo dục hàng đầu.
Thật vậy, chúng ta có thể xem toàn bộ cuộc đời của mình là một cơ hội học
hỏi liên tục. Tất cả các mối liên hệ có thể là phương tiện để huấn luyện
chúng ta trong tình thương yêu, bi mẫn, và là một cơ hội tuyệt hảo để hiểu
biết về bản thân.
Nếu chúng
ta xua đuổi hay trách móc ai, tâm chúng ta sẽ không an. Ngay khi ta vừa
buông bỏ cái cảm giác của sự khắc khe, niềm an lạc trở lại với tâm. Buông
xả thật không dễ, nhưng có nhiều sự hiểu biết nhỏ có thể giúp ta trên con
đường tiến đến đó, ví dụ như, sự hiểu biết rằng chính ta đã tạo ra sự bất
an này, và rằng chính nó làm hại ta.
Nếu tiếp
tục suy gẫm về vô thường và khổ, chúng ta sẽ bắt đầu hiểu rằng cả vũ trụ
đều phải tuân theo chúng. Tất cả mọi vật đều ở trong tiến trình phân hủy
không ngừng nghỉ, hoại diệt, rồi lại tái tạo. Chính vì sự chuyển động
không ngừng của mọi vật mà không có gì có thể hoàn toàn vừa ý cả. Một khi
nhận thức được lý vô thường trong mọi vật, chúng ta sẽ không còn khổ đau
vì nó. Xét cho cùng, chúng ta chỉ là một trong cộng đồng của sáu tỉ người,
mà mỗi chúng ta ai cũng bị luật vô thường chi phối.
Chúng ta
có thể áp dụng những nguyên tắc tổng quát của vô thường và khổ cho bất cứ
tình huống nào. Đây là bước kế tiếp trên con đường dẫn đến sự tỉnh thức,
và ta phải quan sát những tính chất này trong tất cả mọi vật quanh ta.
Chúng ta rồi sẽ thấy không có gì là hoàn toàn như ý, và tất cả là vô
thường. Khi quán sát như thế, không thể có ngoại lệ nào. Tất cả phải được
kể đến. Chúng ta không thể nói, ‘Tôi đã kinh qua khổ đau, nhưng người làm
tôi quá đau khổ thì chẳng ra gì.’ Thật ra, người đó cũng chiêm nghiệm khổ
đau nhiều như ta. Cứ thế dần dần, bằng cách này, chúng ta phát triển một
cảm giác là cuộc đời là một tổng thể, không chỉ gồm những hiện tượng cá
thể.
Mỗi khi
chúng ta phản ứng bằng sự sợ hãi, tổng số sợ hãi trong đời sống tăng lên.
Mỗi khi chúng ta chất chứa uế nhiễm, không hằng thuận, hay trách móc, toàn
thể tổng số của uế nhiễm tăng lên. Trái lại, nếu chúng ta hiểu vô thường
và khổ, sự hiểu biết này làm tăng thêm toàn thể tổng số trí tuệ thế gian.
Nếu chúng ta thấy rõ rằng mỗi cá nhân mang một trách nhiệm cho tổng thể,
chúng ta sẽ sẳn sàng hơn để trụ ở tầng mức nơi ta không còn thấy sự phân
biệt giữa mọi vật.
Mỗi việc
làm tốt góp thêm cái thiện cho cuộc đời, vì chúng ta là cuộc đời. Cảm xúc,
tư tưởng, ngôn từ, và hành động của chúng ta là yếu tố cấu tạo nên thế
giới này. Trên căn bản này, thật là thiển cận khi chỉ trích hay phê bình,
vì làm như vậy là đã quên đi những đặc tính căn bản hay ‘những dấu hiệu’
của sự hiện hữu, đó là vô thường, vô ngã, và khổ. Chúng ta hành thiền
càng lâu, và càng thâm nhập, suy gẫm sâu xa hơn về những sự thật phổ quát
của Pháp, chúng ta càng thấy dễ chánh niệm hơn về những đặc tính này của
sự hiện hữu, và dễ áp dụng chúng vào đời sống hằng ngày.
Dựa trên
chân lý tuyệt đối, không có những thực thể tách biệt, tất cả mọi vật là do
duyên khởi, nhưng trên bình diện tương đối mọi người đều mang trách nhiệm
phải phát khởi điều thiện. Sợ hãi là một đặc tính có thể truy nguyên từ
lòng tham muốn được là những cá thể với bản chất cố định, biệt lập, và
muốn có một đời sống luôn vừa ý mình. Cả hai tham muốn này đều không thực
tế: chúng ta không thể nào sống mãi trong cuộc đời này và mọi việc không
thể nào luôn luôn được như ý mình muốn, do đó sợ hãi phát sinh từ cả hai
mục tiêu đó và làm cản trở con đường của chúng ta. Sợ hãi có thể là một
cảm xúc rất mãnh liệt. Có câu nói rằng ‘sự sợ chết còn tệ hại hơn cái
chết’. Tương tự, một cảm xúc như thế làm mất khả năng duy trì sự tỉnh thức
trong ta. Hầu như mọi thiền sinh đều biết rằng sợ hãi có thể phát sinh
trong lúc đang tập trung tư tưởng, khi đột nhiên cảm nhận về bản ngã của
họ tạm thời vắng bóng.
Một khi
chúng ta đã chế ngự được sự sợ hãi này, bước kế đến là ý thức rằng chúng
ta đang theo đuổi điều không tưởng. Rồi thì điều mơ ước, hay đúng ra là sự
thôi thúc, được vượt lên mức độ hiện hữu của con người phàm phu này sẽ
phát triển. Sự sợ hãi phát sinh trong tiến trình này cần được từ bỏ,
không phải chỉ một mà nhiều lần, bất cứ khi nào ta có cảm giác là bản ngã
của mình bị đe dọa. Căn bản sự sợ hãi này cũng giống như khi ta bị trách
cứ, hay bị khước từ cái bản ngã mà ta khát khao. Có nhiều tên khác nhau
cho sự sợ hãi, nhưng căn bản đó là sự sợ hãi không được hiện hữu.
Thuốc
giải độc hiệu nghiệm nhất cho thói tìm lỗi của ta và tha nhân là sự chứng
nghiệm được sự thật về vô thường và khổ. Tự bảo mình ‘Tôi không nên tìm
lỗi’, thật sự không đủ. Chúng ta có lẽ đã biết điều này lâu lắm rồi.
Điều khó khăn là chúng ta thường hay bị lôi cuốn vào những gì chúng ta nên
tránh xa. Nói đến điều này, có lẻ chỉ có thái độ dấn thân với trí tuệ,
mục tiêu chính của việc hành thiền, mới có thể giúp được ta.
Thiền
được coi như là phương cách giúp chúng ta chiêm nghiệm bản thân một cách
sâu sắc hơn, và đó là lý do tại sao thiền định cần được hỗ trợ bằng sự
trầm tư, quán chiếu, để làm tăng trưởng sự tự biết mình: Chúng ta đã nuôi
dưỡng sự sợ hãi trong ta đến mức độ nào? Chúng ta sợ đánh mất mình đến
đâu? Tự soi xét như vậy đưa ta đến gần hơn với sự thật. Vấn đề quan
trọng ở đây không phải là chúng ta có thể buông xả sự sợ hãi ngay tức khắc
hay không, mà là chúng ta có thể đạt được những hiểu biết mới mẻ qua sự tự
quán chiếu.
Chúng ta
có thể học nhiều điều từ lỗi lầm của người. Nhưng trên hết, chúng ta có
thể hiểu được rất nhiều về bản thân; khi được như vậy, chúng ta sẽ cảm
thấy tương quan, đoàn kết với người, như thể họ là anh chị em của mình.
Trái lại, khi nào chúng ta còn tự tách biệt và quá chú trọng đến những sự
khác biệt cá nhân, thì lòng tham, sân sẽ càng lớn mạnh thêm.
0 comments:
Post a Comment