Thursday, January 8, 2009

SỰ HÀI HÒA TRONG TÔN GIÁO

Đa Dạng Là Lợi Lạc

Tỳ-kheo Thích Minh Thành dịch


Con người đã bị phân hóa quá nhiều và quá thường xuyên chỉ vì những danh hiệu và những tên gọi. Đáng lẽ ra thì chúng ta nên tìm hiễu ý nghĩa và nội dung đích thực thì ngược lại chúng ta lại nắm giữ và chấp mắc những danh hiệu và tên gọi. Thay vì chúng ta cố gắng tìm biết một người nào đó thực sự là người như thế nào và người ấy thực sự tin tưởng cái gì thì ngược lại chúng ta đã đánh giá và kỳ thị vì tên gọi hay danh hiệu của người đó. Chúng ta đã mường tượng ra một ý nghĩa chung chung cho một tên gọi hay danh hiệu nào đó rồi chúng ta cứ yên chí cho rằng người nào có tên gọi hay danh hiệu như thế thì người đó đại để là như vậy. Đầu óc hẹp hòi của chúng ta nghĩa rằng, "Nếu họ là một người Phật Tử Nguyên Thủy, thì họ sẽ không nghe theo những giáo lý của Đại Thừa. Nếu họ là một người Thiên Chúa Giáo thì họ không nghe theo lời dạy của Phật Giáo. Nếu họ có niềm tin tôn giáo thì họ không còn tinh thần khoa học nữa."

Thiên trọng về đầu óc tư duy thuần lý nên người ta suy nghĩ "Tôi là ‘thế nầy, thế nầy’ và họ là ‘thế kia, thế kia’" để rồi người ta tranh luận với nhau. Điều nầy đã xảy ra giữa những người cùng theo một Đức Phật Thích-ca Mâu-ni; điều nầy cũng đã xảy ra giữa người theo Phật Giáo và người theo tôn giáo khác. Cũng may là không có cuộc chiến tranh nào mà người ta nhân danh Đức Phật để đánh nhau; cũng may là không có cuộc chiến tranh nào mà người ta nhân danh bảo vệ Đạo Phật để đánh nhau, cũng không có cuộc chiến tranh nào mà người ta phát động dưới danh nghĩa là truyền bá Đạo Phật. Tuy nhiên, bất cứ một quan điểm nào có tính chất hẹp hòi cục bộ thì đều tai hại, không những nó làm hỏng đi sự tiến bộ tâm linh của chúng ta mà nó còn tạo ra sự xung đột giữa con người với con người.

Bây giờ chúng ta thử phân tích xem đầu óc cục bộ làm hư hại sự tiến bộ tâm linh của chúng ta như thế nào?

Trong Đạo Phật, hai phẩm chất mà chúng ta cần phải làm cho tăng tiến là trí tuệ và từ bi. Nếu chúng ta chấp chặt vào tôn giáo của chúng ta thì chúng ta sẽ cảm thấy bị xúc phạm khi gặp một người ngoại đạo không tin điều mà chúng ta tin tưởng; không kính thờ những gì mà chúng ta đang kính thờ. Khi đó chúng ta sẽ bực tức và manh động; khi đó chúng ta ra sức bảo vệ cho niềm tin của chúng ta và công kích người kia.

Đến giai đoạn nầy thì chúng ta đã không còn ra sức tìm hiễu sự thật nữa, chúng ta chỉ có một việc duy nhất trong đầu là bênh vực cho tôn giáo của chúng ta cho bằng được. Lý do duy nhất là vì đó là tôn giáo của chúng ta. Một tâm lượng hẹp hòi và sân giận như vậy sẽ tạo nên những vết hằn đen tối ác nghiệp trong tâm thức của chúng ta. Những nghiệp xấu nầy sẽ che ngăn chúng ta, khiến cho trí tuệ của chúng ta không thể tăng trưởng hay phát triển cao siêu hơn được nữa.

Mặt khác, tâm sân giận là tâm đối nghịch với lòng từ, một tấm lòng mong muốn cho tất cả mọi người đều đạt được hạnh phúc và thoát khỏi mọi khổ đau.

Rõ ràng là đầu óc cục bộ đã cản trở, không cho khã năng trí tuệ và tấm lòng từ bi của chúng ta phát triển. Đầu óc cục bộ sẽ không đưa chúng ta đến sự giác ngộ, ngược lại nó sẽ đưa chúng ta đi càng ngày càng xa sự giác ngộ giải thoát và an lạc.

Hài Hòa Giữa Những Truyền Thống Khác Nhau Trong Phật Giáo

Khi đã có được một tổng quan về con đường đưa tới sự giác ngộ thì chúng ta hiễu được rằng Giáo Pháp của Đức Phật là những bài học mà Ngài đã dạy cho nhiều người đệ tử khác nhau, với nhiều căn cơ, nhiều khuynh hướng khác nhau, để cho tất cả mọi người và từng người đều biết cách tu tập phù hợp nhất với cá nhân mình. Không có lời dạy nào mà Đức Phật tuyên thuyết ra để cho chúng ta bài bác hay phê bình cả. Vì mỗi lời dạy chỉ thích hợp với một trình độ, một tâm lượng nào đó, hay một giai đoạn nào đó trong quá trình tu tập của chúng ta. Nếu chúng ta cứ phê bình giáo pháp này hay những lời dạy kia của Đức Phật mà không chịu ra sức thực nghiệm và tự thân nổ lực tu tập thì chúng ta đang làm công việc từ bỏ những giáo pháp, những phương tiện có thể dẫn chúng ta đến giác ngộ.

Tuy nhiên, nói như thế không có nghĩa là chúng ta cần phải tu tập tất cả những giáo pháp hay tất cả những lời dạy ngay tức thì. Giáo pháp của Đức Phật thật là mênh mông và sâu thẩm, chúng ta phải thâm nhập từ từ. Chúng ta nên tu tập những giáo pháp nào phù hợp với căn tánh của chúng ta và những lời dạy nào mà chúng ta cảm thấy mình có thể tu ngay bây giờ. Không cần phải tu theo tất cả những giáo pháp ngay tức thì. Từng chút, từng chút, chúng ta sẽ tu tiến và làm cho giáo pháp của Đức Phật thấm dần dần vào cuộc sống tu học hàng ngày của chúng ta. Đôi khi chúng ta tạm bỏ qua một bên pháp môn nầy hay pháp môn kia; điều đó không có nghĩa là chúng ta không thừa nhận pháp môn đó mà chỉ vì pháp môn đó không nằm trong lãnh vực, trong phạm vi tu tập trong giai đoạn đó của chúng ta mà thôi.

Người ta có khuynh hướng muốn dùng thứ tốt nhất, muốn theo pháp môn hạng nhất. Nhưng "tốt nhất" hay "hạng nhất" có nghĩa là gì? Sách nhi đồng là tốt nhất cho trẻ em và sách của người đã trưởng thành là tốt nhất cho người lớn. Chúng ta không thể nói sách nhi đồng là sách tốt nhất, cũng không thể nói sách của người trưởng thành là sách tốt nhất. Tương tợ như thế sách tiếng Việt là tốt nhất cho những người chỉ biết tiếng Việt mà thôi, nhưng đối với một người chỉ biết tiếng Hoa thì sách vở tiếng Hoa là tốt nhất. Chẳng thể nào khẳng định được cái nào là cái "tốt nhất" cho tất cả mọi người.

Điều chủ yếu ở đây là hãy nhận thức rằng không phải tất cả mọi người đều giống nhau. Chúng ta có thể thích món ăn Việt Nam nhưng người kia lại thích món của ăn của Đức hay của Pháp chẳng hạn. Điều đáng ghi nhớ là cả hai loại món ăn đều bổ dưỡng và duy trì được sức khỏe. Tương tợ như vậy, người nầy tu theo truyền thống Nguyên Thủy, người kia tu theo truyền thống Đại Thừa. Nhưng cả hai truyền thống đều giúp cho người ta tu tập và tiến triển trên con đường giải thoát. Cần nói thêm ở đây rằng một nhóm người nầy theo Phật Giáo còn một nhóm người khác thì theo một hệ thống triết học nào đó. Cả hai nhóm người đều có được những lợi lạc và thăng tiến miễn là cả hai hệ thống đều khuyến khích người ta tránh xa những việc làm có tai hại cho người khác và ra sức làm những điều có lợi cho mọi người càng nhiều càng tốt.

Chúng ta đừng phê bình những truyền thống khác của Đạo Phật chỉ vì phương pháp hành trì của họ khác với phương pháp hành trì của chúng ta. Chẳn hạn như một số người cảm thấy phấn chấn với việc cúng dường, tế lễ và cầu nguyện. Một số người khác thì thấy những việc đó không là gì cả, họ lại thích ngồi yên thiền định tư duy quán chiếu hơn. Không phải mọi người chúng ta đều giống nhau, mà chúng ta cũng không nên giống nhau. Điều tuyệt vời là có rất nhiều truyền thống khác nhau cùng tồn tại trong Đạo Phật và nhờ vậy mà mọi người có thể chọn lựa để tìm ra một truyền thống thích hợp với cá tính của mình nhất mà theo đó để tu tiến.

Cũng vậy chúng ta đừng nên chỉ trích những lời dạy nào của Đức Phật chỉ vì chúng ta cảm thấy rằng những lời dạy đó không phù hợp với chúng ta. Đức Phật đã nói lên những pháp thoại phù hợp với căn tánh của người nghe. Đức Phật đã diễn bày giáo lý vô ngã theo nhiều phương diện khác nhau tùy theo căn cơ của thính chúng. Do đó mà bốn tông phái Tây Tạng (Nyingma, Kargyu, Gelu và Sakya) đã được khai sáng, mỗi tông phái dựa trên những bộ kinh khác nhau và có những khẳng quyết khác nhau về ý nghĩa của giáo lý vô ngã theo cách riêng của mình.

Thái độ khinh thị bất cứ một quan điểm hay một tông phái nào là thái độ không sáng suốt, mỗi một tông phái phù hợp với một dạng căn tánh nào đó, phù hợp với một trình độ tâm thức nào đó. Chúng ta cũng chớ có tự thị và suy nghĩ rằng, "Ta đã đạt được sự nhận thức cao nhất rồi, ta không còn phải biết thêm một sự nhận thức nào khác cao hơn nữa cả." Thực tế, các vị đạo sư vĩ đại đều nói rằng việc nhận thức được vô ngã tính một cách rốt ráo tối hậu là một việc làm vô cùng khó khăn cần những nổ lực rất lớn lao và bền bỉ. Chỉ khi nào chúng ta đạt được sự nhận thức về vô ngã tính của tất cả những tông phái khác nhau thì lúc đó chúng ta mới có thể đạt được một sự nhận thức tối hậu về vô ngã tính.

Sự đa dạng của những quan điểm triết học rất là hữu ích trong việc kích thích năng lực học hỏi của chúng ta. Nó khiến cho chúng ta băng khoăng, "Nhận thức tối hậu là gì? Các pháp thực sự tồn tại như thế nào? Để giải đáp thỏa đáng điều trên chúng ta phải học hỏi và kiểm nghiệm tất cả các nhận thức để tìm kiếm ra được sự nhận thức tối hậu. Nhờ vào quá trình học hỏi và kiểm nghiệm đó mà trí tuệ của chúng ta tăng trưởng. Nên xác quyết rằng việc nhận thức không tính không thể thực hiện bằng cách lập đi lập lại trong đầu óc một câu hay một đoạn giáo lý nào đó mà phải dựa trên sự hiễu biết có được nhờ vào việc tư duy về nhiều nhận thức triết học khác nhau.

Chúng ta cũng không nên chỉ trích những truyền thống khác khi những truyền thống đó xữ dụng những từ ngữ không giống với từ ngữ mà chúng ta xữ dụng. Một từ ngữ có thể có những hàm nghĩa khác nhau trong những truyền thống khác nhau. Nếu chúng ta không nhớ điều thực tế nầy thì chúng ta có thể đọc một quyển kinh sách của một truyền thống khác rồi nhận thức một từ vựng nào đó theo truyền thống của chúng ta. Làm như vậy chúng ta sẽ làm sai lạc ý nghĩa thực sự của từ ngữ đó. Làm như vậy thì tất nhiên là những giáo lý chứa trong quyển sách mà ta đọc không thể hiển lộ ra một nghĩa lý gì cả. Ngược lại, nếu chúng ta chịu khó tìm học để có một kiến thức rộng rãi thì chúng ta sẽ hiễu được ý nghĩa đích thực của từ ngữ đó trong văn cảnh đặc biệt của riêng nó và nhận ra rằng những truyền thống tuy khác nhau nhưng cùng hướng đến một chổ giống nhau.

Đề cập đến sự khác biệt của từ vựng được dùng trong 4 giáo phái Phật Giáo Tây-tạng (Nyingma, Kargyu, Gelu and Sakya) để diễn đạt trạng thái tối hậu trên con đường tu tiến, Đức Đạt-lai Lạt-ma trong tác phẩm Lòng Từ, Sự Sáng Suốt và Trí Tue#273;ã viết, "Khi đã vượt thoát được ngục tù của đầu óc cục bộ rồi thì chúng ta sẽ nhận ra rất nhiều điều mới lạ, thú vị và làm thức dậy trí năng vô tận đang tiềm tàng trong bản thân của chúng ta. Chúng ta sẽ thấy được những bộ phái khác nhau đều được xây dựng trên một nền tảng tư tưởng căn bản như nhau."

Những lời thệ nguyện của một vị Bồ-tát và những lời thệ nguyện theo truyền thống Kinh Cang Thừa đều chứa đựng những lời ngăn cấm không cho hành giả khinh thị bất cứ một lời dạy nào của Đức Phật. Kinh Tổng Nhiếp có dạy: "Nầy Văn-thù-sư-lợi, người nào xem một số lời dạy nầy của Như Lai là tốt đẹp và xem một số lời dạy khác của Như Lai là không tốt đẹp thời người đó đã hủy báng Chánh Pháp. Người nào nói rằng lời dạy nầy là hợp lý, lời dạy kia là phi lý... hoặc lời dạy nầy dành cho bậc Bồ-tát mà thôi, lời dạy kia mới dành cho thính chúng... hoặc lời dạy nầy là lời dạy mà vị Bồ-tát không cần phải tu tập theo thời người đó đã hủy báng Chánh Pháp."

Phật Giáo và Những Tôn Giáo Khác

Những vị lãnh đạo những tôn giáo vĩ đại trên thế giới đã và đang tìm kiếm những phương cách để làm lợi lạc cho nhau qua việc trao đổi những kinh nghiệm tâm linh với nhau. Tuy nhiên những tín đồ có đầu óc hẹp hòi thì lại chấp chặt những danh hiệu của những kinh nghiệm tâm linh và những triết thuyết rồi tranh chấp với người không đồng tình với mình hoặc tranh chấp với những người có tín ngưỡng khác danh xưng với tín ngưỡng của mình. Trong lịch sử nhân loại, số lượng những người bị giết vì không đồng tín ngưỡng thật là kinh hồn. Không có vị giáo chủ nào của những tôn giáo trên thế giới lại vui lòng khi thấy rằng vì nhân danh của mình, nhân danh tôn giáo của mình mà con người đã phải chịu cảnh chém giết chết chóc, máu đổ thịt rơi.

Tâm hồn của bậc thánh thì không vướng mắc vào những danh hiệu hay mỹ hiệu. Vì sao? Vì cái mà vị ấy tìm cầu là nội dung và ý nghĩa, là sự hòa hợp và lòng thương yêu. Vị ấy không cần phải chứng tỏ rằng chỉ có mình là chân chánh và giáo lý của mình là phương cách duy nhất. Hầu hết những vị lãnh đạo tôn giáo lớn trên thế giới đều sống một đời sống giản dị và tìm thấy niềm an lạc trong tự thân. Những vị ấy không trông mong những lời ca tụng hay tài sản, thế lực hay sự vinh quang. Những thánh nhân như vậy không bao giờ có đầu óc thù nghịch và cục bộ, không bao giờ có thành kiến tôn giáo. Những thánh nhân đó cùng có chung một hoài bảo là tín đồ của mình được sống hạnh phúc trong một bầu không khí hòa bình với vạn loại sinh linh.

Tất cả tôn giáo đều có chung những điểm chủ yếu sau đây: (1) Tất cả tôn giáo đều nhận thức rằng chỉ tạo ra sự phồn thịnh về mặt vật chất mà thôi thì không phải là con đường đưa đến an vui. (2) Có một trạng thái an lạc thuộc tâm linh cao cấp hơn so với những trạng thái khoái lạc có được ngang qua các giác quan (ngang qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân) của con người. (3) Tất cả tôn giáo đều ra sức khuyến khích và giúp đở con người hoàn thiện bản thân qua việc tu dưỡng sức kiên nhẫn, lòng thương yêu và tánh tôn trọng mọi người. (4) Mọi tôn giáo đều muốn con người tăng cường thiện cảm với con người và biểu hiện thiện cảm đó bằng cách phục vụ cho tha nhân. (5) Để đạt được mục đích nầy tất cả tôn giáo và tín ngưỡng đều nêu cao những giá trị đạo đức để giúp con người chế ngự hành vi của mình. Trong tác phẩm Lòng Từ, Sự Sáng Suốt và Trí Tuệ Đức Đạt-lai Lạt-ma đã nói:

Mục tiêu của tất cả sự tu tập tôn giáo đều giống nhau là thương yêu, chân thành và tôn trọng sự thật. Phong cách sống của tất cả những người có tu tập thật sự là an vui và tự tại. Những lời dạy về đức tính bao dung và tấm lòng từ ái đều giống nhau. Tất cả tôn giáo đều có mục đích cơ bản là lợi lạc nhân sinh, tuy là làm theo phương thức riêng, khác biệt nhau nhưng mỗi tôn giáo đều ra sức giáo hóa con người để cho con người trở nên tốt hơn và thánh thiện hơn. Nếu chúng ta quá trọng thị và quá chấp chặt vào nền triết học, tôn giáo, hay học thuyết của riêng chúng ta; rồi tìm cách áp đặt nền triết học, tôn giáo hay học thuyết của riêng chúng ta lên thân phận của tha nhân thì hậu quả sẽ là bất an và rối khổ. Về căn bản mà nói thì tất cả những bậc giáo chủ vĩ đại như Thích-ca, Jê-su, Mô-ha-mét... những vị giáo chủ đó đã sáng lập ra những giáo thuyết tôn giáo với mục đích là giúp ích cho mọi người. Thích-ca, Jê-su, Mô-ha-mét... không hề hướng đến mục đích lợi lạc cho bản thân và cũng không hề nghĩ đến việc tạo ra thêm những rối khổ và bất an cho cuộc đời đã có khá nhiều rối khổ và bất an nầy.

Cốt lõi của Phật Giáo là sự sáng suốt và lòng thương yêu. [2] Cốt lõi của giáo lý Thiên Chúa Giáo, Ấn-độ Giáo, Do-thái Giáo, Hồi Giáo cũng là đạo đức và lòng thương yêu. Sự sáng suốt, đạo đức và lòng thương yêu là những phẩm chất có giá trị phổ quát, trùm khắp tất cả không gian và thời gian trong vũ trụ nầy.

Về phương diện triết lý thì có những khác biệt – tôn giáo nầy thì tin có một đấng sáng tạo ra vũ trụ và thế gian nầy, trong khi tôn giáo khác như Phật Giáo thì lại không tin như thế. Vì vậy làm một kẻ ngây thơ mới nói rằng triết lý của tất cả tôn giáo đều giống nhau. Có lẽ chỉ có những người đã đắc đạo thì mới có thể thấy là chúng giống nhau. Những người bình thường như chúng ta (xin lỗi chư tôn đức) chỉ có thể nghĩ rằng những sở đắc tâm linh mầu nhiệm của những bậc thánh trong tất cả các tôn giáo đều giống nhau, nhưng khi diễn đạt lại cho tín đồ nghe thì những bậc thánh ấy lại vận dụng những hệ thống thuật ngữ và những hệ thống khái niệm khác nhau. Chữ nghĩa và lời nói đã không đủ sức trình bày rốt ráo hết được những sự thật tâm linh mầu nhiệm đó. Khi đã hiện thân thành những chữ nghĩa và lời nói thì chúng chỉ là một phiên bản phục chế từ những sự thật tâm linh mầu nhiệm đó. Do vậy những kinh nghiệm tâm linh mầu nhiệm có thể là giống nhau nhưng chữ nghĩa, khái niệm và cách nói để diễn đạt chúng thì lại khác nhau.

Tuy nhiên đối với những người căn cơ bình thường như chúng ta (xin lỗi chư tôn đức) thì chữ nghĩa và khái niệm vẫn có vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn cho chúng ta trên con đường đi đến chổ đạt được kinh nghiệm tâm linh. Do vậy, chúng ta phải học hỏi, phân tích nhiều triết thuyết khác nhau để có thể quyết định một triết thuyết cụ thể nào có thể giúp cho chúng ta một cách tốt đẹp nhất trong việc thanh lọc thân tâm và phát triển những phẩm chất cao quý đang tiềm tàng trong bản thân của chúng ta. Chúng ta không cần phải chỉ trích người khác vì triết thuyết mà họ ham thích không giống với triết thuyết mà chúng ta đang ham thích. Mặc dù chúng ta có thể thảo luận và thậm trí tranh luận về mặt triết học với nhau để chỉ ra những điểm không nhất quán của triết thuyết nầy và nêu ra những phẩm chất tốt đẹp của triết thuyết kia. Nhưng làm như vậy không có nghĩa là chúng ta khinh thị những người tin vào triết thuyết nầy hay triết thuyết kia.

Theo quan điểm Phật Giáo thì sự đa dạng phong phú của triết thuyết là có lợi lạc. Vì sao? Vì không phải ai cũng thấy sự vật một cách giống nhau. Con người ta có trình độ khác nhau, cảm thức khác nhau, tánh khí khác nhau nên nếu có nhiều dạng nhiều loại tôn giáo khác nhau cùng hiện diện thì thật là lợi lạc. Nhờ vậy người ta có thể chọn lựa tôn giáo nào thích hợp với cá nhân mình nhất mà tin theo và hành trì. Thật là khủng khiếp nến tưởng tượng ra tình trạng mà tất cả mọi người trên thế giới nầy đều phải chấp nhận một khuôn mẩu tôn giáo nhất định nào đó và tất cả mọi người đều phải suy nghĩ giống y nhau theo khuôn mẩu của một triết thuyết nào đó. Thật ra, điều tưởng tượng trên là không thể có. Đức Đạt-lai Lạt-ma có nói:

Tôi nghĩ rằng có nhiều dạng tín ngưỡng khác nhau là hữu ích. Đó là một sự sung túc và giàu có, con người có nhiều hình thức thể hiện, nhiều cách thức trình bày khác nhau về luân lý đạo đức. Cứ nhớ trong đầu rằng con người trên thế gian thật là đông đảo, thật là nhiều dạng, nhiều hạng, nhiều tâm tư, nhiều tính cách khác nhau, nhiều cảm thức khác nhau thì chúng ta sẽ thấy rằng có nhiều dạng tín ngưỡng khác nhau nhiều dạng tôn giáo khác nhau là hữu ích.

Đối Thoại Giữa Các Tôn Giáo

Ở Âu Châu, Bắc Mỹ và Úc Châu những con số những cuộc đối thoại giữa các tôn giáo đang có chiều hướng gia tăng. Khi Đức Đạt-lai Lạt-ma đã đi Âu Châu thì Ngài đã làm thượng khách được tòa thánh Vatican mời đến thăm viếng. Một giám mục Tin Lành (Episcopalian) cao cấp đã giới thiệu Đức Đạt-lai Lạt-ma cho thính giả của ông ta tại Đại Giáo Đường Westminster vào năm 1985. Những nhà sư Tây-tạng và ni cô Tây-tạng đã đến viếng thăm những tu viện Gia-tô Giáo ở Hoa-kỳ; những tu sĩ và nữ tu sĩ thuộc giáo hội Gia-tô Giáo Hoa-kỳ ngược lại đã đến và đang tu học tại những tu viện Phật Giáo Nhật-bản. Trong nội bộ Phật Giáo hiện nay cũng đã có những cuộc hội nghị và hội thảo mang tầm vóc quốc tế. Những cuộc hội họp nầy được đại diện của tất cả các truyền thống, các tông phái, các sơn môn Phật Giáo trên thế giới tham dự. Trên đây chỉ nêu ra một vài sự kiện điển hình chứ thật ra còn nhiều sự kiện mang tính chất toàn cầu như thế đã diễn ra (mà người viết không được thông tin).

Mặc dầu ngày nay sự kiện các nhà lãnh đạo của những tôn giáo lớn trên thế giới họp mặt và học hỏi lẫn nhau là một sự kiện góp phần cực kỳ quan trọng vào nền hòa bình của thế giới. Chúng ta cũng nên ý thức rằng đối với những người tu học bình thường như chúng ta (xin lỗi chư tôn đức) thì việc gặp gỡ và học hỏi với những người đang tu theo tôn giáo khác cũng quan trọng không kém. Những cuộc hội thoại giữa các tôn giáo không những giúp cho chúng ta có thể cùng nhau cầu nguyện, thiền quán và chia xẽ kinh nghiệm về sự an lạc nội tâm; những cuộc hội thoại giữa các tôn giáo còn giúp cho chúng ta tránh được sự mê tín, hóa giải những sự hiễu lầm nhau và làm tan đi sự sợ sệt đối với nhau.[3]

Khi chúng ta tiếp xúc nhiều, bàn luận nhiều với những người thuộc tôn giáo khác thì chúng ta sẽ có được sự hiễu biết tốt hơn về cơ chế hoạt động của tâm hồn con người, chúng ta sẽ có được sự hiễu biết tốt hơn về phương thức để truyền đạt cho người nghe thuộc một hệ thống tâm thức tôn giáo khác sao cho trùng với phương thức mà chính người đó dùng để nắm bắt vấn đề. Tâm hồn của chúng ta trở nên linh hoạt hơn và chúng ta có thể vượt qua những lời mà người khác dùng để diễn đạt để nắm bắt được những ý nghĩ mà người đó muốn diễn đạt. Nếu chúng ta nghe một tu sĩ của Gia-tô Giáo đã tu trên 50 năm kể cho nghe về những tầng bậc khác nhau trên con đường tu tiến và những chướng ngại khó khăn mà bản thân vị ấy đã vượt qua thì chúng ta sẽ thấy rằng câu chuyện của vị tu sĩ ấy có nhiều điểm tương đồng song song với quá trình tu tập thuộc Phật Giáo của chúng ta. Điều nầy rất có thể sẽ khiến cho chúng ta có thêm sức tinh tấn để vượt qua những thời kỳ khó khăn của chính chúng ta trong quá trình tu tập.

Nếu chúng ta có điều kiện nói chuyện với một giáo sĩ Do-thái Giáo, thì chúng ta sẽ vô cùng kinh ngạc khi biết được rằng một số phương thức lễ nghi của Do-thái Giáo cổ đại lại rất giống với những phương thức lễ nghi của Phật Giáo. Nếu chúng ta đọc một số sách về phương pháp quán chiếu của Thiên Chúa Giáo thì chúng ta có thể nhận ra nhiều điểm tương tự với ‘tổ sư thiền’ của Phật Giáo Tây-tạng. Những điều như thế sẽ giúp cho chúng ta nhận chân được cả sự đa dạng và sự nhất thể trong tư tưởng mang tính chất tôn giáo của loài người.

Nhận chân được tôn giáo và tín ngưỡng của người ngoại đạo không hề làm bất ổn và nguy hiểm cho việc tinh tấn hành trì những pháp môn của người theo Phật Giáo. Ngược lại, khi mà chúng ta có thể nhìn xuyên qua ngôn ngữ và khái niệm để nắm bắt được điều mà ngôn ngữ và khái niệm muốn diễn đạt, khi mà chúng ta có thể vượt qua được những sự khác biệt hời hợt bên ngoài để nắm bắt được một mục đích tối hậu sâu xa bên trong thì khã năng trí tuệ và tâm lượng từ bi của chúng ta sẽ phát triển. Khi ấy, niềm tin của chúng ta đối với ngôi Tam Bảo càng ngày càng tăng trưởng.[4]

***

(Phóng dịch từ nguyên tác tiếng Anh "Taming the Monkey Mind" của Thubten Chodron)

***

GHI CHÚ

[1] Đã cắt đoạn sau đây ra:

Những lời dạy mà tôi đã được nghe trong khóa thiền đầu tiên đã làm thay đổi cuộc đời tôi rất sâu sắc. Những lời dạy đó gây ấn tượng mạnh trong lòng tôi không phải là vì đó là những lời Đức Phật dạy mà vì đó là những lời dạy có ý nghĩa lớn. Tôi chẳng để tâm đến việc người nào đã dạy như vậy, tôi cũng chẳng để tâm tới việc lời dạy đó thuộc về tôn giáo nào, tôn giáo đó tên gì. Tại sao vậy? Tại vì điều mà tôi cảm kích thật sự là nghĩa lý tốt đẹp của lời dạy đó và giá trị to lớn của lời dạy đó trong đời sống hằng ngày của tôi.

Cái thuở đầu tiên đó, tôi không hề biết những danh từ to lớn, những tên gọi ấn tượng như Đại Thừa, Nguyên Thủy... Thật ra, tôi chẳng màng đến danh từ nào cả. Cái thuở đầu tiên đó tôi cũng chẳng hiễu những danh từ chỉ cho các giáo phái của Phật Giáo Tây Tạng như Nyingma, Kargyu, Gelu and Sakya. Thiền Tông, Tịnh Độ Tông, Mật Tông, Kim Cang Thừa đối với tôi lúc ấy chỉ là những danh từ, những tên gọi. Đến ngày hôm nay tôi cảm thấy không dễ chịu khi bị người ta hỏi, "Chị đi theo thừa nào vậy?". Tôi cũng cảm thấy không dễ chịu khi có người hỏi tôi "Chị đi theo tông nào vậy?". Tại sao tôi không cảm thấy dễ chịu? Tại sao tôi cảm thấy khó chịu khi có ai đó hỏi những câu hỏi đại loại như thế? Tại vì trong lòng của tôi thì tôi chỉ là một con người chỉ thuần túy là một con người trong muôn vạn con người đang tìm cầu hạnh phúc và tìm cách để cho đời sống của tôi có ý nghĩa và có lợi lạc cho những người khác. Như thế là đủ.

{2} Đã cắt đoạn sau đây ra:

Chúng ta có thể diễn đạt hay biểu lộ và thực hiện sự sáng suốt và lòng thương yêu nầy mà không cần phải vận dụng đến những từ ngữ cao siêu trong nền triết học Phật Giáo.

{3} Đã cắt đoạn sau đây ra:

"Chính bản thân tôi đã có được nhiều lợi ích qua những cuộc bàn luận với những người thuộc tôn giáo khác. Tôi đã có được sự hiễu biết tốt hơn về cơ chế hoạt động của tâm hồn con người, tôi đã có được sự hiễu biết tốt hơn về phương thức để truyền đạt cho người nghe sao cho trùng với phương thức mà chính người nghe dùng để nắm bắt vấn đề. Tâm hồn của tôi trở nên linh hoạt hơn và tôi có thể vượt qua những lời mà người khác dùng để diễn đạt để nắm bắt được những ý nghĩ mà người đó muốn diễn đạt. Tôi cũng đã tiếp thu được một số hướng dẫn tuyệt diệu. Khi đó một nữ tu sĩ bề trên của Gia-tô Giáo đã tu trên 50 năm kể cho tôi nghe về những tầng bậc khác nhau trên con đường tu tiến mà bản thân bà ta đã trải qua và những chướng ngại khó khăn mà bản thân bà ta đã vượt qua. Tôi khám phá ra rằng trong câu chuyện của bà có nhiều điểm tương đồng song song với quá trình tu tập thuộc Phật Giáo. Điều nầy khiến cho tôi, một nữ tu sĩ trẻ tuổi hơn, có thêm đởm lực để vượt qua những thời kỳ khó khăn của quá trình tu tập."

Một lần khác tôi đối thoại với một nữ giám mục dòng Bap-tít và chúng tôi đã so sánh những kinh nghiệm vì chúng tôi đều là nữ tu trong tôn giáo. Lần đối thoại nầy thật là lợi lạc và đầy phấn khởi. Khi nói chuyện với một nữ giáo sĩ của Do-thái Giáo, tôi vô cùng kinh ngạc khi biết được rằng một số phương thức lễ nghi của Do-thái Giáo cổ đại lại giống nhau với những phương thức lễ nghi của Phật Giáo. Khi đọc một quyển sách về phương pháp quán chiếu của Thiên Chúa Giáo tôi lại nhận ra nhiều điểm tương tự với ‘tổ sư thiền’ của Phật Giáo Tây-tạng. Trải qua những điều như thế giúp cho tôi nhận chân được cả sự đa dạng và sự nhất thể trong tư tưởng mang tính tôn giáo của loài người.

Nhận chân được tôn giáo và tín ngưỡng của người khác không hề làm bất ổn cho việc tinh tấn hành trì Phật Giáo của chúng ta. Ngược lại, khi mà chúng ta có thể nhìn xuyên qua ngôn ngữ và khái niệm để nắm bắt được điều mà ngôn ngữ và khái niệm muốn diễn đạt, khi mà chúng ta có thể vượt qua được những sự khác biệt hời hợt bên ngoài để nắm bắt được một mục đích chung sâu xa bên trong thì khã năng trí tuệ và lòng từ bi của chúng ta sẽ phát triển và niềm tin của chúng ta đối với ngôi Tam Bảo trở thành niềm tin bất động.

{4} Theo đoạn chót của quyển Taming the Monkey Mind của Thupten Chodron

http://www.buddhismtoday.com/viet/doi/015-haihoa.htm

0 comments:

Post a Comment