Wednesday, May 30, 2012

Sắt Son


 Tác giả: Phạm Tín An Ninh
1. Sắt Son
Không ngờ tôi lại là người bưng tấm ảnh chị Ngà theo sau quan tài của chị. Và cũng chính tôi là người đào huyệt chôn chị. Đám ma của chị 
có lẽ là một đám ma buồn nhất mà tôi chứng kiến. Có cái chết nào lại 
không buồn. Những ngày ở trong trại “cải tạo”, tôi đã từng khiêng xác vài 
người bạn tù đi chôn ở ven triền núi hoang vắng đến lạnh lẽo, trong cảnh 
nhá nhem của buổi chiều đông trên khu núi rừng Việt Bắc. Nhưng đó là 
chuyện trong tù, còn hôm nay ngay trên làng quê mình, chị Ngà đến nơi 
an nghỉ cuối cùng mà không có một người ruột thịt tiễn đưa, ngay cả 
cái áo quan cũng do bà con láng giềng góp tiền mua cho chị.
Chị nằm bên cạnh cha mẹ cùng người em trai, trên một ngọn đồi đầy những 
cỏ may và cây hoa bộng giếng, nhìn xuống cái làng quê mà gần cả một đời
 chị sống quanh quẩn ở đây, cô đơn, lặng lẽ.
Chôn cất xong, mọi người ra về, tôi nán lại, dựng tấm bia bằng gỗ trước mộ 
chị. Khi ngồi một mình nắn nót viết cái tên của chị lên tấm gỗ, nước mắt tôi 
ràn rụa, mơ hồ như thấy mình đang trở về cái thời nào đó thật xa xăm.
Ngày xưa cha tôi làm thầy giáo, dạy trường Pháp Việt. Tôi mồ côi mẹ từ 
lúc mới lên ba, cho nên những ngày đi dạy học ông thường dắt tôi theo. 
Đến lớp, ông giao tôi cho mấy anh, chị học trò lớn của ông để tôi vừa chơi 
vừa học. Nhờ vậy mà lúc còn bé tí xíu tôi đã biết “con ngựa cheval nhảy qua 
hòn núi montagne ăn cỏ herbe uống nước de l’eau“.
Trong số các anh chị dạy tôi học, tôi thích nhất là chị Ngà. Chị là con gái lớn 
của ông bà Tần, chuyên nuôi tằm, bán tơ, một gia đình thuộc hàng khá giả 
trong làng, có ngôi nhà ngói lớn, ờ cách nhà ông bà nội tôi chỉ mấy cái vườn 
cây. Chị Ngà có làn da trắng, mái tóc thật dài. Lúc nào gặp tôi chị cũng 
cười và nói năng nhỏ nhẹ. Nghe cha tôi nói lại, chị hiền lành ngoan ngoãn và 
học rất giỏi, nên là một trong số học trò cưng của cha tôi. Thấy tôi mồ côi
 mẹ, lại là con của thầy mình, nên chị rất thương tôi. Ngay cả những ngày nghỉ,
 chị cũng thường ghé lại nhà ông bà nội, dắt tôi đi chơi, mua cho tôi mấy 
con bò, con gà bằng đất. Có điều tôi ít khi đến nhà chị, vì rất sợ những con tằm.
 Tôi bảo đó là những con sâu, mặc dù chị tốn bao nhiêu công sức để nói về
 lợi ích của con tằm đã làm nên tơ lụa, và những con bướm đẹp đẽ đang bay
 ngoài vườn kia là hoá thân từ chính những con tằm. Nhưng lúc ấy tôi 
nghĩ là chị đã kể từ một chuyện thần thoại nào đó nên không tin những điều chị
 nói.
Cả một thời ấu thơ, lớn lên ở nhà ông bà nội, ngoài cô Út ra, chị Ngà là người 
mà tôi gần gũi nhiều nhất. Chị có một người em trai tên Ngọc, lúc nhỏ tôi 
rất phục tài đá banh của anh. Gần như không trận bóng nào có anh mà thiếu
 tôi trong hàng khán giả nhi đồng. Nhờ anh mà đội bóng cùa làng tôi giữ chức
 vô địch mấy năm liền trong huyện. Tôi mê anh đá banh, nhưng nhiều cô gái 
trong làng thì mê anh đẹp trai, cao lớn. Sau này anh đăng vào lính thủy quận 
lục chiến. Nghe nói anh đánh giặc hăng lắm, nên mới ba năm đã lên tới 
chức trung sĩ. Lâu lâu về phép dắt theo cô bồ có mái tóc quăn, trông anh oai 
phong lắm.
Khi tôi từ giã quê lên tỉnh học, cũng là lúc chị Ngà ra nghề làm cô giáo, 
dạy một lớp nhỏ trường làng, rồi lấy chồng. Tôi cũng vinh dự được mời, và 
quà cưới tôi cho chị hôm ấy là bức tranh chân dung của chị do chính tay 
tôi vẽ. Tưởng chồng chị là ai, hoá ra là anh Phúc, cũng là học trò của cha tôi,
 học trên chị một lớp, người cùng làng. Nghe nói anh học giỏi, nhưng 
thầm lặng, ít nói và không thích giao du với bạn bè. Anh là con trai một 
của bà ba Tịnh. Bà góa chồng từ lúc nào tôi không biết. Chỉ nghe người ta 
bảo ông Tịnh theo vợ bé, là một cô đào trong gánh hát rong, rồi biệt tăm luôn.
Anh Phúc thi đậu lấy bằng primaire, nhưng viện cớ mẹ goá con côi, nên không
 đi làm công chức như những người khác, mà lại tự mình khai thác một khu 
vườn bên kia sông Gốc, trồng nhiều loại cây và có ao nuôi cá. Trong làng ai 
cũng khen anh biết tính toán và có lòng hiếu thảo
Trong đám học trò của cha tôi cũng có vài anh khác ngắm nghé chị Ngà, 
nhưng vâng lời cha mẹ, chị lấy anh Phúc, bởi anh là con một của bà mẹ góa,
 được nhà nước cho miễn dịch, khỏi phải đi lính xa nhà, để chị còn được gần
 gũi săn sóc ông bà khi đến tuổi già. Đám cưới nhà quê, nhưng khách khá 
đông, mà hầu hết là bạn học của hai người và cũng là học trò của cha tôi.
Trong lễ cưới, sau khi cô dâu chú rể lạy tạ cha mẹ hai bên, rồi xin được lạy
 cha tôi một lạy để đền ơn sư. Cha tôi cầm tay anh chị dặn dò nhiều thứ, 
tôi không nhớ hết, chỉ còn mang máng hai tiếng thủy chung.
Từ ngày chị Ngà lấy chồng tôi ít có dịp gặp lại chị. Mặc dù nhà chồng chị 
cũng không xa mấy, nơi ven làng, bên con sông Gốc, mà phía bên kia sông là
 khu vườn của anh Phúc và cánh rừng tiếp giáp với dãy trường sơn.
Tôi gặp lại chị đúng vào một ngày buồn, chỉ đứng nhìn chị ấy khóc. Anh Ngọc,
 em trai duy nhất của chị, bị tử trận đâu trong Rừng Sát. Cha mẹ chị ngất xỉu
 khi nhận chiếc quan tài mà không hề được báo trước. Đám ma hôm ấy nghiêm
 trang lắm, có cả ông quận và mấy anh lính bồng súng chào đi theo. Tôi dìu 
chị đi sau linh cửu, tiễn đưa anh Ngọc đến nơi an nghỉ cuối cùng.
Điều làm tôi – và nhiều người – ngạc nhiên là trong đám ma của anh Ngọc, 
không ai nhìn thấy mặt anh Phúc, chồng chị. Mọi người thì thầm “cha nào con 
nấy, chắc là lại mê con đào hát nào, bỏ con Ngà rồi!’’
Tội nghiệp cho chị và oan cho anh Phúc. Vì trước đó mẹ anh Phúc đã thay
 mặt con trai xin lỗi gia đình sui gia, bởi anh Phúc ốm nặng bất ngờ phải nằm 
bệnh viện.
Hai tháng sau, một trận lụt lớn tràn qua làng tôi, kéo theo một số nhà cửa và 
trâu bò, nhưng không có ai chết, ngoại trừ cái tin anh Phúc bị nước cuốn đi, 
khi anh còn ở khu vườn bên kia sông Gốc, chưa kịp về nhà. Mẹ anh Phúc rước
 thầy ngồi đồng đi tìm xác anh Phúc suốt mấy ngày liền, nhưng người ta 
nghĩ là xác anh đã trôi ra biển.
Trong nhà cũng lập bàn thờ, nhưng chị Ngà nhất định không chịu để tang. 
Chị bảo linh tính báo cho chị biết là anh Phúc, chồng chị vẫn còn sống. 
Có thể, xác anh đã trôi giạt đến một nơi nào đó rồi được người ta cứu như
 câu chuyện nàng Thúy Kiều mà chị thường đọc cho cha mẹ chị nghe…
Tôi rời quê vào Sài gòn học, rồi sau đó đi lính. Lâu lâu nghỉ phép về quê, 
tôi tìm đến thăm chị. Sau ngày cha mẹ mất, chị nghỉ dạy học, bán ngôi nhà 
ngói lớn của ông bà, đem tiền bạc về xây lại ngôi nhà mẹ chồng thành 
ngôi nhà lớn ba gian, mua luôn cả khu vườn bên cạnh có trồng đủ loại cây 
ăn trái. Chị dành lại một số tiền mở một nhà máy xay xát nhỏ, nuôi bà mẹ 
chồng bị đau bệnh mấy năm nay, chỉ nằm một chỗ.
Trong làng, có người thì bảo chị ấy “khôn nhà dại chợ, bán nhà cha mẹ để 
gây dựng nhà chồng, và mang cả bàn thờ cha mẹ, em út sang bên ấy, không
 sợ tủi hổ vong linh”. Nhưng cũng có người, trong đó có ba tôi, thì khen chị,
 bảo là “xuất giá thì phải tùng phu, con Ngà nó làm vậy là đúng theo sách 
thánh hiền!“
Không hiểu có phải vì chị nghe lời dặn dò của ông Thầy, từng khai tâm 
và dìu dắt chị nên người, thuộc lòng hai chữ thủy chung, nên dù chồng đã 
biệt tích từ lâu, chị vẫn ở vậy, thờ phụng nhà chồng, trong lúc chị vẫn còn
 trẻ và có nhan sắc trong vùng. Có mấy ông thầy giáo ở xa đổi tới từng mon 
men đến chị nhưng chị khước từ.
Ngày mẹ chồng chết, cũng chỉ có mỗi một mình chị mặc áo tang. Nghe 
nói cái đám ma đúng vào một ngày gió mưa, ảm đạm. Người ta không chỉ 
thương cho người chết, chẳng có chồng con trong phút lâm chung, mà còn 
tội nghiệp cho cả cô dâu, một mình cô đơn đi sau quan tài, tiễn đưa bà mẹ 
chồng về nơi chín suối, mà cũng đưa cuộc đời mình vào chốn quạnh hiu.
Chiến tranh càng lúc càng leo thang. Sau ngày mấy ông tướng nghe theo Mỹ 
hạ bệ và giết hai anh em ông Ngô đình Diệm, không biết đất nước có thực sự
 khá hơn không, nhưng ở quê tôi thì không còn bình yên như trước nữa. 
Một vài người làm việc trong chính quyền bị ám sát. Cứ vài ba tuần lại có
 một cuộc đụng độ giữa các toán dân vệ với quân du kích. Ba tôi phải bỏ
 quê, về sống ở thành phố, giao ngôi nhà từ đường của ông bà nội cho 
cô Út tôi chăm nom thờ phượng.
Tôi về phép thăm ba tôi đúng vào ngày giỗ ông nội, nên hai cha con cùng 
về thăm quê. Tôi gặp chị Ngà khi vừa bước chân vào nhà ông nội. Chị đến 
đây từ sáng sớm, phụ cô tôi dọn dẹp nhà cửa, bàn thờ, chùi bóng mấy bộ 
lư đồng và mấy tấm liễn. Thấy ba tôi, chị vòng tay cúi đầu thưa Thầy như 
cái hồi còn bé. Chị nắm tay tôi, miệng nở nụ cười. Nhưng nhìn trong đôi 
mắt chị, tôi thấy phảng phất buồn.
Không biết ba tôi thay đổi quan niệm từ lúc nào, sau đám giỗ, ông bảo tôi 
tìm chị Ngà, dặn chị ở lại cho ông nói chuyện. Ông khuyên chị Ngà nên
 bước thêm bước nữa, hy vọng còn sinh đẻ được để có mụn con, hầu tránh 
cảnh tuổi già đơn chiếc, chẳng có ai lo lắng cho mình. Hôm ấy tôi cũng phụ 
họa nhiều điều và hứa sẽ làm mai cho chị. Lần này Chị không một mực khước
 từ, nhưng xin để tang mẹ chồng cho đủ ba năm. Tôi giận chị nhưng cũng 
cảm phục tấm lòng thủy chung của chị.
Tháng tư bảy mươi lăm, khi chị Ngà chưa mãn tang mẹ chồng, thì cả miền 
nam để tang cho đất nước. Cái “đại thắng mùa Xuân” của những người 
Cộng sản đã gây biết bao nhiêu thê lương tang tóc. Ba tôi bị bắt trong lúc tôi
 còn theo đơn vị từ Cao nguyên “di tản chiến thuật” vào các địa danh xa lạ 
ở tận Long An tham dự những trận đánh cuối cùng cô đơn và buồn tẻ.
Miền Nam mất. Trong lúc những người Cộng Sản ngơ ngác hò reo chiến 
thắng, tôi lặng lẽ quá giang đủ các loại xe trở về quê. Tìm tới trại tù Đá Bàn,
 một mật khu lúc trước nằm sâu trong núi, nơi ba tôi bị giam giữ, nhưng
 cuối cùng tôi vẫn không được phép gặp ba tôi. Tôi về nhà ông nội thăm 
bà cô út và thắp hương từ biệt trước bàn thờ gia tộc.
Cô tôi đau lòng cho biết, người ký lệnh bắt ba tôi là một anh học trò của 
chính ông ngày trước. Anh bỏ nhà lên núi rồi tập kết ra Bắc. Bây giờ đang 
giữ một chức vụ khá lớn trong Uỷ Ban Quân Quản.
Cô tôi chưa kể hết câu chuyện thì chị Ngà đến. Chị nắm chặt hai bàn tay tôi,
 không nói điều gì. Tôi thấy chị đang khóc. Tôi nghĩ là chị thương và lo lắng
 cho cha con tôi trong cái cảnh sa cơ này. Tôi lấy lại bình tĩnh, chưa kịp nói 
lời trấn an, thì chị nhìn tôi nghẹn ngào:
- Em, em.. xin Thầy và em tha thứ cho chị. Chị không ngờ.., chị thật sự không 
ngờ.
Và chính tôi cũng không ngờ. Anh học trò ký lệnh bắt cha tôi chính là anh 
Phúc, chồng của chị. Tôi rút nhanh tay ra khỏi bàn tay của chị. Dường như
 đây là lần đầu tiên trong đời, nhìn những giọt nước mắt – mà lại nước mắt 
của một người rất gần gũi thân quen – lòng tôi dửng dưng không hề xúc động.
 Tôi có cảm giác đắng cay của một người bị lừa gạt và phản bội. Tôi giận 
cho tình đời và thầm ân hận là cha tôi đã từng “nuôi ong tay áo”.
Tôi từ biệt làng quê và bà cô cả một đời nuôi nấng chăm lo cho tôi từ thời tấm bé, bước vào trại “cải tạo” với ngổn ngang trăm mối trong lòng.
 Tự dưng tôi mất mát gần như tất cả mọi thứ trên đời, kể cả những tình cảm
 mà tôi cứ ngỡ là nó sẽ không bao giờ mai một,
Hơn tám năm trong nhiều trại tù từ nam ra bắc, bị hành hạ đói khổ khốn cùng.
 Tôi sống còn có lẽ là nhờ những giấc mơ về quá khứ. Trong đó tôi bắt gặp
 lại hầu hết bóng dáng những người thân yêu của cái thời hạnh phúc. Và khuôn
 mặt xinh đẹp hiền hậu dễ thương của chị Ngà vẫn thường hiện lên rõ nét, 
mặc dù khi đầu óc tỉnh táo, tôi đã cố gắng xua đuổi hình ảnh ấy ra khỏi ký ức 
mệt mỏi của mình. Tôi thương chị mà hận chị. Tôi nghĩ là chị đã đồng lõa
 với nhà chồng để lừa gạt chúng tôi hơn mười mấy năm qua.
Ra khỏi tù, tôi không được phép về sống chung với vợ con ở thành phố 
Ninh Hòa, quê vợ. Lý do hết sức đơn giản là: chính quyền ở đó không nhận
 tôi tạm trú. Công an tỉnh bắt buộc tôi phải về “trình diện chính quyền” nơi
 sinh quán. Tôi lại một mình khăn gói về quê cũ, mà ở đó chỉ còn một bà cô
 già goá bụa sống âm thầm trong ngôi nhà từ đường có mái ngói âm dương 
của ông bà nội tôi để lại.
Nghe tin tôi về, bà con hàng xóm đến thăm. Mới hơn tám năm mà trông ai 
cũng già nua, khắc khổ. Trong số đó tôi để ý một người đàn bà, đứng ngoài
 cửa nhìn tôi, đôi mắt thất thần, đầu tóc rối bù, áo quần rách rưới bẩn thỉu. 
Tôi ngờ ngợ nhớ tới một người. Nhưng khi vừa đứng lên định bước tới hỏi 
thăm, thì bà ta vụt chạy về phía sau vườn. Tôi ngẩn người khi cô tôi bảo nguời
 đàn bà ấy chính là chị Ngà, vợ anh Phúc ngày xưa.
Buổi tối, sau khi dắt tôi lên căn nhà thờ thắp hương lạy ông bà, cô tôi đóng 
kín cửa, khêu ngọn đèn dầu, ngồi kể cho tôi bao nhiêu nỗi niềm tâm sự. 
Cha anh Phúc – theo lời tiết lộ sau này từ những người thân tín của anh Phúc –
 thực ra không hề theo một ả hát rong nào cả, mà bỏ làng vào bưng từ khi
 anh Phúc mới lên mười. Ông đã chết từ lâu, nhưng hàng năm vợ con vẫn 
nhận được thư ông do một vài người lạ mặt mang tới. Trong mấy lá thơ, 
hầu hết là khuyến khích anh Phúc nối gót cha đi theo bọn chúng. Trước khi
 lên núi, anh Phúc làm quen, rồi tỏ ra yêu chị Ngà, nhưng thực ra đó là kế 
hoạch đã được bọn chúng giao cho anh Phúc phải thi hành, để giải quyết
 việc nuôi nấng mẹ của Phúc, mà họ biết là bà đã trở thành goá bụa từ lâu rồi.
Những ngày làm vườn bên kia bờ sông, anh Phúc đã hoạt động cho phía bên kia.
 Dưới căn hầm trong khu vườn là sào huyệt từng che dấu cho nhiều cán bộ. 
Sau một trận tấn công chiếm trụ sở xã bất thành, sợ hành tung bại lộ, anh Phúc
 đã lên núi rồi tập kết luôn ra Bắc, sau khi dựng lên vở kịch chết trôi trong trận 
lụt năm nào.
Tất cả mọi việc không phải chỉ để qua mắt mọi người, mà còn đánh lừa cả chị 
Ngà. Chị nhẹ dạ cả tin, nên ban đầu cứ tưởng chồng mình còn sống bị trôi giạt
 ở đâu đó, nên vẫn chờ đợi trong hy vọng. Sau một thời gian dài bặt vô âm tín,
 chị mới nghĩ là anh đã chết. Tội nghiệp, chị không hề biết là mình đã bị lừa
dối để uổng phí cả một đời xuân sắc.
- Thế bây giờ ông Phúc ở đâu và vì sao chị Ngà lại ra nông nỗi? Tôi hỏi.
- Sau ngày 30-4 chưa đầy một tháng, thằng Phúc đưa vợ con từ ngoài Bắc vô
 đây, dành lấy ngôi nhà do công sức của con Ngà gầy dựng, trong đó phần lớn 
là tài sản của chính cha mẹ nó. Con Ngà phải ra phía góc vườn che một cái 
chòi tranh để trú nắng trú mưa.
- Còn cái máy xay xát ở đâu mà trông chị nghèo khổ đến như vậy? Tôi thắc 
mắc
- Họ mang vào hợp tác xã. Thời gian đầu họ cho con Ngà làm công nhân xay 
lúa, nhưng lại trả lương bằng bo bo. Chỉ sau vài tháng tất cả các máy xay xát
 tâp trung về huyện, nó bị mất việc.
- Bây giờ gia đình ông Phúc vẫn còn bên ấy? Con không muốn có ngày gặp 
mặt ông ta.
- Thực ra nó dành nhà, nhưng chỉ ở một vài tháng rồi cho gia đình một “đồng 
chí”nào của nó cũng từ ngoài Bắc vào tá túc, trong khi chờ chia chác những
 ngôi nhà lớn mới tịch thu. Sau đó thằng Phúc bán cả nhà lẫn vườn tược 
lại cho người khác, vào thành phố nhận một chức hàm lớn hơn. Con Ngà
 nó phát điên từ dạo ấy. Ngày nghe tin ba con chết trong trại tù cải tạo, nó 
như một kẻ không hồn. Ban đêm, người ta nghe tiếng nó gọi Thầy ơi, Thầy ơi
 rồi khóc nức nở.
Tôi theo cô Út, đi dọc theo phía sau mấy khu vườn, tìm đến chị Ngà. Trong căn
 chòi lụp xụp tối tăm, chị Ngà đang ngồi thẫn thờ trên cái giường tre như 
một pho tượng cũ. Trên đầu giường có ba tấm ảnh của cha mẹ chị và anh Ngọc,
 em chị, nhem nhuốc, úa màu. Không ngờ cái ngày đổi đời, người chồng biệt 
tăm bao nhiêu năm bây giờ bỗng dưng về, trở thành ông lớn thì cuộc đời của 
chị lại tàn tạ bi thảm như hôm nay. Tôi ngồi xuống bên cạnh chị, ôm đôi 
vai gầy còm của chị mà trong lòng tựa hồ như bao nhiêu vết chém.
- Chị Ngà ơi, chị vẫn mãi mãi là chị của em mà. Em thương chị và sẽ lo lắng 
cho chị.
Chị Ngà ngồi bất động. Rồi bất ngờ òa lên khóc. Cô cháu tôi càng dỗ dành an 
ủi, chị lại càng khóc to hơn, tôi nghe tiếng ấm ức nghẹn trong cổ họng chị. 
Tôi năn nỉ, khóc lóc với chị bao nhiều lần mới đón được chị về ở chung trong 
nhà ông nội. Tôi mang mấy tấm ảnh của cha mẹ chị và anh Ngọc về để một 
góc trên bàn thờ gia tộc. Từ ngày ấy chị khá hơn xưa. Những lúc ngồi tâm 
tình với cô cháu tôi, chị vui vẻ bình thường như thuở còn con gái, nhưng 
cũng có nhiều đêm khuya chị ngồi trước bàn thờ lẩm bẩm một mình và khóc
 sụt sùi. Từ ngày có chị, tôi cũng thấy mình đỡ bớt cô đơn, và có lúc còn thấy 
mình hạnh phúc trở lại với cái thời thơ dại.
Vậy rồi chị lìa bỏ thế gian này cũng thật bất ngờ. Buổi sáng thức dậy sớm,
 tắm rửa xong chị thay quần áo mới, kẹp lại mái tóc, trông chị trẻ ra. Cả ngày
 hôm ấy chị cười đùa hồn nhiên vui vẻ, ngồi ôn lại bao nhiêu kỷ niệm của 
những ngày tôi còn bé, và chị còn là cô học trò cưng của ba tôi. Khi vui, trí óc
 chị trở nên minh mẫn lạ thường. Chị còn nhớ bao nhiêu điều mà chính tôi đã 
quên từ lâu lắm. Trước khi đi ngủ, chị còn ôm đầu tôi vào lòng, nhại một câu 
hát đã lâu “may mà có em đời còn dễ thương..”. Và sau đêm hôm ấy, chị 
không bao giờ thức dậy nữa.
Trước ngày vượt biển, phải cắt ruột bỏ quê mà đi, tôi đến nghĩa trang gia tộc 
thắp hương cho ông bà và mẹ tôi, rồi đến thăm mộ chị cuối cùng. Trong lúc 
cầm ba nén hương đứng trước mộ chị, tôi nghĩ đến thuyết luân hồi của nhà 
Phật, và hình dung bây giờ chị Ngà đang sống ở một thế giới khác, xinh đẹp 
và rất hạnh phúc với một người chồng xứng đáng, bởi chị là một nguời đàn bà 
thánh thiện, sắt son.
Một con bướm trắng không biết từ đâu bay lại đậu trên tấm bia bằng gỗ, mà 
chính tay tôi đã dựng lên cho chị, nhịp nhịp đôi cánh rồi vụt bay theo cơn gió 
lốc, biến mất trong bầu trời xanh.
(Viết vào ngày giỗ thứ hai mươi của chị Ngà)
Phạm Tín An Ninh

0 comments:

Post a Comment