Bác
Sĩ Tâm Lý - Trang Nhã Trinh (Ya-Jen Chuang)
Sau khi nghe những câu chuyện của một bệnh nhân bị Rối Loạn Lưỡng Cực, tôi nhận thức ra tại sao Hòa Thượng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc trì giới ....
Tôi
làm quen với những bài thuyết giảng của Hòa Thượng vào
khoảng bốn năm về trước, vào khoãng thời gian này tại Đài
Loan đang có dịch bệnh SARS. Thật
ra, bệnh SARS giống như các loại bệnh về hô hấp rất nguy
hiểm và dễ lây mà Hòa Thượng đã đề cập trong những bài
thuyết pháp. Là người làm
việc trong ngành sức khỏe, tôi có nỗi lo sợ mỗi khi ra khỏi
bệnh viện nơi tôi đang làm việc. Bởi vì tôi có thể bị cách
ly nếu tôi bị cơn sốt dù là loại nhẹ nhất, do đó tôi rất
ít đi đến bất cứ nơi nào. Vào lúc đó dì tôi gửi cho tôi
những sách báo có những bài thuyết giảng của Hòa Thượng và
tôi bắt đầu nghiên cứu những bài giảng này.
Hòa Thượng nói rằng những người trì tụng Chú Đại Bi
và Chú Lăng Nghiêm sẽ không bi bệnh dịch lây nhiễm, từ đó tôi
học Chú Lăng Nghiêm.
Khi
tôi đọc những bài thuyết giảng của Hòa Thượng, tôi kinh
ngạc về cách Ngài nói lên chân lý và xiển dương đạo đức,
Ngài không theo những lề thói truyền thống để vừa lòng người.
Tôi sống trong xã hội Đài Loan nơi chân lý trở nên hiếm
hoi trong khi đó dối trá thì mỗi ngày mỗi gia tăng. Lòng kính
trọng của tôi đối với Hòa Thượng khởi lên một cách tự
nhiên. Lời giảng dạy của
Ngài hướng dẫn tôi qua những khó khăn và những tình huống
dễ lầm lẫn trong nghề nghiệp của tôi, đã chuyển hóa tôi
từ một người chưa bao giờ đụng đến Kinh điển thành con người
mong muốn khám phá kho tàng Kinh điển quý báu, và giúp tôi hiểu
những bệnh tâm thần từ quan điểm Phật Giáo.
Ngài cũng chỉ ra cho tôi sự sai lầm của việc xem nhẹ
giới luật và thay vào đó đã cho tôi hứng khởi để học hỏi
và trì giới.
Sau
khi tốt nghiệp, tôi đi vào ngành chuyên môn của mình với
những mong đợi đầy lý tưởng. Tôi
được làm việc bên cạnh những bác sĩ phân tâm thâm niên và
đầy kinh nghiệm ở bệnh viện mà tôi hằng kính trọng. Thế nhưng,
một hôm tôi nhận ra những đồng nghiệp của tôi đã dùng sự
hồn nhiên và kính trọng tha nhân của tôi như là một yếu điểm
để lợi dụng. Tôi đã trãi qua trạng thái tâm lý bất ổn cao
độ. Tôi bắt đầu tự
hỏi có phải muốn thành công trong ngành của tôi, ngoài việc phát
triển chuyên môn, tôi cần phải học cách lợi dụng yếu điểm
của người khác để có lợi cho mình.
Tuy nhiên, tôi biết tôi không thể làm được điều đó.
May mắn thay, Hòa Thượng nhấn mạnh sự quan trọng của việc tuân
theo các quy tắc về đạo đức và luân lý. Ngài cũng chỉ ra
rằng chúng sinh sống trong thời mạt Pháp rất thường hay tranh
chấp; do đó những hành vi nhằm làm lợi mình trên sự thiệt
hại của người khác rất phổ biến.
Những giảng dạy của Ngài đã tái xác nhận niềm tin ban
đầu của tôi và cho phép tôi phân biệt rõ ràng giữa cái đúng
và cái sai trong chỗ làm việc, cho nên tôi không còn bị phiền
toái bởi những tranh giành hay thị phi.
Lớn
lên ở Đài Loan, là sinh viên tôi phải học những sách cổ Trung
Hoa (viết bằng chữ Hoa cổ điển).
Tuy nhiên, tôi không hiểu nhiều lắm.
Tôi đã phải đoán mò trong những kỳ thi cho những lớp này.
Trước khi gặp lời dạy của Hòa Thượng, tôi đã học giáo
lý Phật pháp, đã tham dự nhiều Pháp Hội thiền và niệm
Phật; nhưng tôi chưa bao giờ nghĩ đến việc học Kinh.
Vì Kinh viết bằng chữ Hoa cổ điển, tôi tưởng rằng tôi
sẽ không thể nào hiểu được trong kiếp này.
May mắn thay, Hòa Thượng đã dùng ngôn ngữ đơn giản dễ
hiểu khi giảng Kinh, vì thế tôi thể nghiệm được rằng sự súc
tích của Kinh đã vượt xa kiến thức thế gian của chúng ta. Tôi
cũng nhận thức được rằng Kinh đang nói về cách chúng ta suy
nghĩ và hành động ngay trong đời sống hàng ngày, và sự nhận
thức này khơi dậy lòng thich thú của tôi muốn nghiên cứu Kinh
điển và mong muốn khám phá cái kho tàng Kinh điển này.
Là
một bác sĩ phân tâm lâm sàng (làm việc trực tiếp với bệnh
nhân), tôi đã gặp vài trường hợp bệnh tâm thần không thể
chữa tri được; ngay cả sau khi dùng tất cả các phương pháp tâm
lý trị liệu và những thuốc mới nhất.
Khi gặp những bệnh nhân như thế, tôi không thể giúp gì
cho họ, do đó tôi cảm thấy phẫn nộ và bất lực.
Hòa Thuợng có nói rằng những người bi rối lọan tâm
thần thường là do phạm những nghiệp chướng trầm trọng, do đó
những chúng sinh mà họ đã gây hại hay thiếu nợ cứ theo đuổi
họ để tìm cách trả thù hay đòi nợ. Hơn nữa, con người
cần có công đức và căn lành mới gặp được thiện Pháp.
Dựa trên đạo lý này, khi thảo luận với các bệnh nhân
của tôi về những sinh hoat hằng ngày của họ, tôi chú trọng
khuyến khích họ làm những việc thiện nhiều hơn, như làm các
việc thiện nguyện, điều đó sẽ giúp họ tạo công đức.
Tôi cũng can ngăn họ để đừng phí phạm thì giờ đi tìm
những khoái lạc.
Hòa
Thượng cũng đề cập rằng “đồng tính luyến ái” là sai trái.
Tuy nhiên trong khoa phân tâm học, vấn đề đồng tính
luyến ái không còn được xem là một lệch lạc tâm thần nữa.
Tôi cũng có một số bạn bè và bệnh nhân là “đồng tính
luyến ái”. Tôi nhớ trong
một bài thuyết giảng của Thầy Hằng Thật có nói rằng khi Hòa
Thượng gặp những người đồng tính luyến ái, Ngài sáng suốt
và từ bi giúp họ về phương diện giảm thiểu dục tính.
Tôi theo lời dạy này như là hướng dẫn trong việc điều
trị bệnh nhân hay giao tiếp với những bạn bè đồng tính
luyến ái. Trên thực tế, không
phải tất cả kiến thức đều đúng.
Vì thế, tôi rất may mắn được học Phật pháp và những
giáo pháp của Hòa Thượng, và sử dụng các giáo pháp này để
tham cứu và suy tư về những kiến thức thế gian mà tôi dùng
hằng ngày.
Trước
kia tôi không hiểu các lý do của việc giữ giới, do đó tôi đã
hoài nghi về việc giữ giới. Tôi
tự hỏi, nếu tôi giữ giới chỉ vì những người khác đều làm
như thế, thi làm sao việc giữ giới gíup tôi trong việc tu hành.
Tuy nhiên, sau khi biết được Hòa Thượng nhấn mạnh về việc
giữ giới và lắng nghe những câu chuyện của bệnh nhân, tôi đã
hiểu đuợc sự quan trọng của việc giữ giới.
Tôi
xin chia sẻ với quý vị về những câu chuyện của một số
bệnh nhân của tôi. Tôi có một bệnh nhân chừng bốn mươi
tuổi bị Rối Lọan Lưỡng Cực Lọai I.
Ông kể cho tôi nghe là khi còn trẻ, ông nghi ngờ người
bạn gái của ông không chung thủy, và không cần bằng chứng, ông
đã giết người bạn gái. Ông
bị án tù, sau khi mãn hạn tù ông bắt đầu một cuộc đời
mới. Ông làm việc rất siêng năng, lập gia đình và nuôi nấng
hai đứa con mà ông rất thương yêu.
Nhưng đến khi ông có thể hưởng thành quả do công sức
siêng năng của mình thì ông ngã bệnh.
Ông được chẩn đoán là bị Rối Lọan Lưỡng Cực Lọai
I. Sự rối lọan tâm thần này là một loại bệnh tâm thần
trầm trọng, cơ hội bình phục rất mong manh.
Vợ ông nộp đơn ly dị và mang mấy đứa con đi mất.
Kết quả là người bệnh nhân này đau khổ cùng cực.
Một
thí dụ khác là về một số nữ bệnh nhân bị Rối Lọan Lưỡng
Cực Lọai II. Khi tôi hỏi
họ đã từng phá thai trong quá khứ hay không thì mới biết
rằng bảy người trong số mười người này đã từng phá thai.
Loại bệnh Rối Lọan Lưỡng Cực này có hai giai đọan:
Giai đoạn Thích Đến Khùng Điên va Giai đoạn Buồn Đến Vô
Vọng. Khi đang ở trong Giai
đoạn Thích Đến Khùng Điên thi bệnh nhân cảm thấy hưng
phấn, luôn tìm cách thỏa mãn những ao ước khác nhau và không
cần biết những hậu quả nguy hại có thể xảy đến do hành động
của mình. Ví dụ, họ có
thể mua sắm không kềm chế được và cuối cùng bị ngâp nợ,
hoặc họ qua đêm với người lạ mặt.
Khi trong Giai đoạn Buồn Đến Vô Vọng, bệnh nhân cảm
thấy buồn chán, vô vọng. Vô vọng đến độ họ thấy đời
sống không giá trị hay không còn ý nghĩa.
Những cảm giác này có thể đưa họ đến tự vận.
Một
câu chuyện để lại một ấn tượng sâu đậm trong tôi là về
một người đàn bà trẻ đẹp có người chồng luôn yêu thương
bà và hai đứa con ngoan. Sau
nhiều năm làm việc chuyên cần, sau cùng người bệnh nhân và
chồng có được cuộc sống tốt đẹp, có nhà, xe hơi và con cái.
Chẳng may, người vợ mắc chứng Rối Lọan Lưỡng Cực
Lọai II. Bà phải nhập viện mấy lần, nhưng những trị liệu
đều không hiệu quả lắm. Mặc
dù bà biết làm sao để sống một đời sống bình thường nhưng
lại không làm được bởi vì mắc bệnh này.
Khi tôi hỏi đến câu hỏi là bà đã từng phá thai hay không
thì bà bảo tôi rằng trước khi kết hôn, bà đã một lần có
thai, vì họ chưa kết hôn và sợ việc có thai ngoài hôn nhân
sẽ làm cha mẹ bị mang tai tiếng nên họ đã chọn phá thai thay
vì giữ lại thai.
Một
thí dụ khác về một bệnh nhân chừng ba mươi tuổi bị bệnh
Rối Loạn Trầm Cảm Nặng cứ tái đi tái lại.
Cô bệnh nhân có một gia đình đàng hòang.
Chồng cô là kỹ sư vi tính biết chăm sóc vợ và hai con.
Con gái của cô mới chỉ học tiểu học, nhưng cô bé rất
hiểu biết. Mỗi khi cô
phải nhập viện, cô bé đều gửi thơ qua ba cô bé nhờ nhắn
với mẹ là cô yêu và nhớ mẹ lắm. Sau khi cô về nhà, con của
cô ở bên cạnh cô để bầu bạn, khuyến khích và làm cô hài lòng
với cung cách xử sự rất ngoan của con.
Tuy nhiên, khi cô có triệu chứng lên cơn bệnh trầm cảm,
cô luôn tự hành xác. Mỗi
khi cảm thấy thật buồn bực hay đau khổ, cô tự tông mình vào
tường hay tự cắt mình; và tự giải tỏa nỗi đau trong tâm
thần bằng cái đau thể xác. Trong
những thời kỳ trạng thái bất thường gia tăng, cô làm như
vậy mỗi ngày. Khi được
hỏi, cô cho biết cô đã từng phá thai. Mặc dù tôi không biết
có phải bệnh tình của cô phát sinh từ việc phá thai hay không,
nhưng tình trạng của cô ấy thật đáng buồn.
Sau
khi nghe những câu chuyện này, tôi nhận thức được tại sao Hòa
Thượng nhấn mạnh tầm quan trong của việc giữ giới.
Nếu con người có thể giữ giới, thì những việc giết
hại đó sẽ không xảy ra, và họ sẽ không phải chịu đựng
sự đau khổ của quả báo. Do đó, tôi quyết tâm học và giữ
giới. Năm nay tôi có đủ
may mắn được thọ Bồ Tát Giới ở chùa Vạn Phật Thánh Thành.
Mặc
dù tôi chưa bao giờ được diện kiến Hòa Thượng, nhưng giáo lý
của Ngài không ngừng hướng dẫn tôi vào con đường đúng đắn
trong cuộc đời. Tôi tin vào tất cả các chỉ dẫn của Hòa Thượng,
và từng bước cố gằng đem thực hành những điều Ngài giảng
day.
0 comments:
Post a Comment