Thưa qúy vị,
Hôm nay tôi xin được trình
bày về ý nghĩa thế nào "là
một Phật tử chân chánh".
Nhiều người tự xưng là
Phật tử, nhưng khi có
người hỏi thế nào là Phật
tử thì giật nẩy người ra,
trả lời quanh quẩn không
nhằm vào đâu. Nhiều khi vô
tình còn làm cho người
ngoài hoài nghi chê cười.
Ðể thành một người Phật tử
chơn chánh thì cần phải để
tâm công phu tu học. Tu
học có nghĩa là học để
thực hành. Trên đời này
không có việc gì thành
công tiến bộ mà không thực
hành theo chỗ sở học?
Huống nữa Phật tử là người
tiêu biểu cho lành thiện
tiến bộ?
Nói đến Phật tử chơn chánh
tức là ngoài chơn chánh có
hạng Phật tử tà ngụy. Phật
tử tà ngụy là hạng người
cũng đi chùa lạy Phật,
cũng quy y Phật, nhưng lại
ngấm ngầm với cái tâm lợi
dụng để được quen biết
nhiều người, hầu để buôn
bán, vay mượn tiền bạc, để
có chức phận, để được
người khen, để làm áp phe,
để có dịp khoe khoang con
cháu tiền của danh phận,
để tỏ ra đây tu lâu năm
hiểu đạo nhiều, hộ cúng
chùa làm việc phước thiện,
quen biết nhiều thầy v.v...
Họ quy y Phật mà cũng quy
y ngoại đạo tà nhơn tà
giáo, thờ cúng ta ma thần
quỷ. Ấy là hạng tà ngụy
Phật tử.
Còn Phật tử chơn chánh thì
căn bản trước nhất là phải
có quan niệm khách quan,
nhận định đâu là chánh,
đâu là tà. Chánh để theo
và tà để tránh, với tâm
thành cầu đạo và rõ biết
người Phật tử sống với tâm
hạnh nào, phải làm bổn
phận gì.
Người sống ở đời ai cũng
có bổn phận: Bổn phận cha
con, bổn phận vợ chồng,
bổn phận vua tôi, bổn thầy
trò, bổn phận công dân.
Người có tín ngưỡng tôn
giáo thì có bổn phận của
người tín đồ, đệ tử. Nói
tóm lại, ở trên đời này hễ
đã sống trong cương vị nào
thì có bổn phận ở cương vị
đó. Nếu không có ý thức về
bổn phận của mình thì
chẳng khác nào ký sinh
trùng hay loài ruồi muỗi
cỏ cây. Vậy người Phật tử
có những bổn phận nào để
trở thành là người Phật tử
chơn chánh? Và từ đó mới
mong thánh thiện hóa đời
mình trên đường giác ngộ.
Ðể hoàn thành bổn phận của
một người Phật tử chơn
chánh, căn bản trước mắt
nhất phải thực hiện những
điều sau đây:
1. - Thái độ chơn chánh
khách quan.
Ðạo Phật là đạo chánh tín.
Người theo đạo Phật phải
đặt niềm tin nơi sự thật,
tin đúng chân lý, tin đúng
chánh pháp. Do đó để khỏi
rơi vào tà nhơn tà thuyết
ma đạo, người tìm tôn giáo
phải hết sức khách quan
với tâm vô tư không một
bợn nhơ thành kiến, để từ
đó có thể phân biệt đâu là
chánh để theo, đâu là tà
để tránh. Ta phải phân
biệt xét xem tôn giáo nào
siêu việt tuyệt luân làm
cho con người khai trí
phát tuệ giác ngộ giải
thoát. Phải biết nhận định
tôn giáo nào mê tín dị
đoan, đưa con người đến
cuồng si ích kỷ hẹp hòi,
vong bản quôc gia giống
nòi, coi nhẹ hiếu đạo, lơ
là thờ cha kính mẹ. Ta còn
phải khách quan nhận định
tư cách vị giáo chủ của
tôn giáo đó có phải là bậc
đầy đủ trí đức của bực
siêu nhân cứu thế, hay chỉ
là kẻ phàm tình khéo gây
thanh thế rồi thần thánh
hóa hoặc chỉ là ngẩu tượng
thần linh huyền hoặc mơ hồ.
Người Phật tử chơn chánh
còn phải dùng trí sáng
suốt vô tư để phân định
nền giáo lý, những lời dạy
của vị giáo chủ đó có chân
chánh không, có khả năng
nâng cao giá trị con người
trên đường thánh thiện
không, có làm cho nhân
loại hòa bình và có thật
sự đưa nhơn loại đến cứu
cánh chơn thiện mỹ an vui
tịnh lạc không. Muốn đạt
đến sự chân chánh khách
quan của niềm tin, ta phải
có trí sáng suốt và nghị
lực mới mong vượt qua mọi
thứ cám dỗ của cảm tình bè
bạn. Phải có trí tuệ và
nghị lực để soi đường cho
lý tưởng, giữ vững lập
trường ngõ hầu thoát khỏi
sự ràng buộc của ái tình
bắt buộc, của bà con lôi
kéo, của bạn bè dụ dỗ, của
quyền chức danh lợi cuốn
lôi.
Ðức Phật nói: "Tin ta mà
không hiểu ta thì sẽ hủy
báng ta". Một ngày nọ, có
người đệ tử đến thưa với
Phật: "Bạch Ðức Thế Tôn,
con đến nghe Ngài thuyết
pháp thật hay chí lý.
Nhưng khi các Thầy bà La
Môn họ cũng nói với con,
đạo của họ hay lắm, cao
tột lắm. vậy con không
biết phải tin vào ai?".
Ðức Phật mỉm cười từ hòa
đáp: "Con đừng vội tin vào
ai hết. Con hãy dùng trí
sáng suốt vô tư của con,
đem những lời giảng dạy
của ta và những lời giảng
dạy của các thầy Bà La Môn
áp dụng vào đời sống của
con, và so sánh kết quả
thấy lời giảng dạy nào làm
cho con an lạc tiến bộ lợi
ích thiết thực thì con
theo vị đó".
Thật ra, chọn lấy một tín
ngưỡng làm lý tưởng cho
đời sống của mình không
thể vì tình cảm, danh lợi
hoặc phó mặc cho bà con
dòng tộc đặt định, hay
nhắm mắt đưa chân theo
phong tục tập truyền. Nếu
như thế chẳng khác nào kẻ
nô lệ mặc tình để cho
người đem mình ném vào
ngọn lửa thiêng tế thần.
Người tin tôn giáo không
dùng trí tuệ xét đoán,
không dùng nghị lực tự chủ,
họ thường hay nói một cách
vô ý thức biểu trưng cho
sự nông cạn ngu dốt bằng
câu: "Ðạo nào cũng tốt".
Thật là tai hại lắm vậy.
2. - Thành tâm cầu học.
Sau khi khách quan nhận
định về giáo lý, về những
chứng tích sinh hoạt và
thành quả quá trình của
các tôn giáo, truyền bá
phục vụ nhân loại, nhận
thấy tôn giáo nào thật sự
làm an lạc cho đời, phụng
sự hòa bình thế giới không
gây đau khổ cho người, thì
ta quyết định tin theo.
Một khi theo tôn giáo nào
đó rồi, ta phải vận dụng
khả năng, lợi dụng thời
gian để nghiên tầm học hỏi
giáo lý. Bằng không ta mắc
phải lỗi lầm tin ù ù cạt
cạt, tin thiếu sáng suốt
nhận định, hoặc tin theo
thời thế, tin để được lợi
lộc, đây không phải là
niềm tin chơn chánh.
Ðặc biệt, người Phật tử
cần phải học hỏi giáo lý
của Ðức Phật để đi cho
đúng đường, để hiện đời
được hạnh phúc tiến bộ, để
tu hành đạt thành đạo quả.
Nếu không học hỏi giáo lý
thì chỉ là tu mù. Tu mù
chẳng những không đi đến
đâu mà sẽ còn rơi sâu vào
hố thẳm của tà nhơn ma đạo
mê hoặc. Bởi ma thường hóa
hiện giả trang làm Phật.
Người Phật tử nếu khong
hiểu giaó lý thì dễ bị
lung lạc trước những tà
thuyết, ma thuật ngụy
thánh. Không học hiểu giáo
lý thì dễ bị tà sư bạn ác
đánh lừa dẫn dắt. Không
học hiểu giáo lý thì không
thể nào phân định được đâu
là lời Phật nói, đâu là
lời chư tổ dạy, đâu là lời
ma nói, và sẽ đưa đến nhận
định tà kiến Phật ma lẫn
lộn. Không hiểu giáo lý,
không thầy chân tu thật
học kinh nghiệm hướng dẫn
thì không biết phương pháp
tu nào để đạt được an lạc
hạnh phúc, mau thành đạo
quả. Không học hiểu giáo
lý thì chỉ là cái vỏ danh
xưng Phật tử, là kẻ tu lấy
lệ, và sẽ không thể nào
đạt đến đạo quả cứu cánh
như Ðức Phật mong muốn
chúng sanh đạt thành đạo
quả giác ngộ, thoát ra
vòng sanh tử luân hồi.
Thế nên, người Phật tử
phải khéo biết lợi dụng
thời gian, hoàn cảnh và
khả năng của mình để cầu
học hỏi giáo lý, để thấu
hiểu lời chỉ dạy của Phật,
để thực hành đạo nghiệp có
hiệu quả hơn. Không thể
viện lý do vì bận rộn nhà
quá, vì bận rộn công ăn
việc làm quá. Biết bao giờ
mới hết bận rộn? Còn hơi
thở là còn bận rộn. Chúng
ta bận rộn vì chúng ta đắm
nhiễm vào ái ân tham vọng,
vì thù tạc cảm tình và như
thế mãi mãi trôi lăn trong
vòng lẩn quẩn ngày qua
ngày, để rồi già nua oan
uổng một đời.
Nhiều người nói tôi có
tham vọng ái ân gì đâu!
Xin thưa cứ mãi lo sắp xếp
chuyện này, lo cho đứa con
kia, lo cho đứa cháu nọ,
phải đi tham dự vì người
ta mời, lo mua thêm cái
nhà v.v... đủ thứ lý do,
đó không phải là một hình
thức tham vọng ái ân ích
kỷ chứ là gì? Chính những
thứ này nó tiêu phí thời
gian, giết chết một đời
hành đạo của ta. Tại sao
ta không khôn ngoan hơn để
phân định thời gian ra, là
khi nào lo việc nhà, việc
con cái, lúc nào lo học
đạo, tu dưỡng thân tâm,
vun bồi phước đức để tự
cứu lấy ta và giúp đời? Cứ
mãi miết bận lo phần vật
chất ái ân giả tạm, mà
quên đi phần tinh thần
trường tồn thánh thiện của
tâm linh, điều đó không
đáng tội nghiệp cho kẻ ngu
muội lấy giả làm chơn,
chấp phụ làm chánh, nhận
phàm làm thánh sao?
3. - Quy y Tam Bảo.
Sau khi chọn lấy đạo Phật
làm niềm tin của mình rồi,
thì tiếp đến là tìm thầy
học đạo, chọn thầy quy y.
Nghĩa là để hoàn thành
xứng danh là một Phật thì
ta phải quy y Tam Bảo. Tại
sao ta lại phải quy y Tam
Bảo? Xin thưa, quy y Tam
Bảo có nghĩa là đem đời
mình nương tựa Phật, Pháp,
Tăng với ý chí hướng
thượng trên đường giác ngộ
giải thoát, để dứt khoát
xa lìa phiền lụy của sanh
tử luân hồi.
Thế nào gọi là quy y Tam
Bảo?
Quy y Tam Bảo bao hàm ý
nghĩa trở về nương tựa.
Như con nương tựa với cha
mẹ mà được no cơm ấm áo
lớn khôn. Như học trò
nương tựa với thầy để học
hỏi điều hay lẽ tốt, trở
thành người trí thức học
rộng hiểu nhiều. Còn chúng
sanh si mê lầm lạc nay hồi
đầu trở về nương tựa với
Tam Bảo Phật-Pháp-Tăng để
trở thành hiền lương quân
tử thánh thiện. Tam Bảo
Phật, Pháp, Tăng là nơi
hiền hòa thanh tịnh, giác
ngộ giải thoát các căn cội
phiền não sanh tử luân
hồi.
Nhưng tại sao gọi
Phật-Pháp-Tăng là Tam Bảo?
- Xin thưa, Tam Bảo có
nghĩa là ba ngôi quý báu.
Nên Phật-Pháp-Tăng còn
được gọi là ba ngôi qúy
báu. Người đời cho vàng
bạc ngọc ngà kim cương hột
xoàn là quý báu. Nhưng xét
cho kỹ, những thứ này chỉ
là đồ trang sức thân thể.
Nó chẳng qua là phương
tiện cho cuộc sống vật
chất, mua cơm ăn áo mặc
nhà ở xe cộ v.v... chứ
thật sự không đem lại hạnh
phúc chơn thật cho con
người. Mà quan niệm nghiêm
chỉnh chơn chánh về hạnh
phúc là, cái gì làm cho
con người được chân thật
an lạc hạnh phúc vĩnh viễn
thì cái đó mới gọi là quý
báu.
Biết bao người vì muốn có
được nhiều kim cương hột
xoàn vàng bạc mà phải lập
mưu tìm kế lừa dối phỉnh
gạt. Biết bao người lo âu
vì có nhiều kim cương hột
xoàn vàng bạc. Lo âu vì sợ
trộm cướp, lo âu vì sợ con
cháu dâu rể biết được sẽ
sanh tâm tranh giành tìm
cách soán đoạt. Biết bao
người vì nhiều kim cương
hột xoàn vàng bạc của cải
mà phải tan nhà mất mạng,
hạnh phúc gia đình ly tán,
tình thân quyến thuộc nhạt
phai. Và cũng biết bao
người không dám ăn dám mặc
dám ngủ, trằn trọc suốt
đêm vì sợ mất, vì muốn
được nhiều thêm.
Tóm lại, kim cương hột
xoàn vàng bạc của cải
không phải chơn thật quý
báu. Nó chỉ là phương tiện
cho đời sống vật chất giúp
con người bớt đi đói rách
mà thôi. Nếu ai biết xử
dụng nó thì cuộc sống trở
nên thoải mái đạo đức có ý
nghĩa. Nhưng lòng người
như túi tham không đáy, có
bao giờ thấy đủ đâu? Lúc
có dư mười đồng thấy không
đủ. Khi có dư một trăm,
một ngàn, mười ngàn, mười
vạn cũng thấy không đủ?
Cho nên càng có tiền mà
không biết học hiểu và
thực hành lời Phật dạy thì
càng trở nên thấy thiếu,
càng thêm keo kiết và càng
xa dần điều ân nghĩa phước
thiện. Thế thì kim cương
hột xoàn vàng bạc có phải
là chân thật quý báu
không, thưa quý vị? Phàm ở
đời, cái gì mang lại hạnh
phúc thật sự và vĩnh viễn
cho đời sống không lo âu
mới là quý báu. Cái gì làm
cho con người lo âu, thúc
dục, lòng người tham lam
đuổi bắt là đau khổ, là
không phải quý báu.
- Tại sao Phật Pháp Tăng
gọi là quý báu?
- Phật là con người như
bao nhiêu con người, là
một thái tử như bao nhiêu
thái tử. Ngài nhận thấy
cuộc đời mộng huyễn dãy
đầy khổ đau, nên ngài xả
bỏ tất cả sự đời, quyết
tâm tu hành và đã thành
Phật. Người thành Phật là
người thấu rõ cội nguồn
nhân sanh vũ trũ, thể nhập
chân lý, sống như chân lý.
Người thành Phật là người
tâm thanh tịnh sánh suốt,
dứt sạch phiền não, không
còn sanh tử luân hồi khổ
đau. Thế nên Phật nói cho
đủ là Phật Ðà, có nghĩa là
con người đại giác ngộ,
hoàn toàn giải thoát mọi
thăng trầm phiền lụy của
nhân thế.
Phật có ba nghĩa căn bản
là: Tự giác, giác tha, và
giác hạnh viên mãn.
Tự giác, nghĩa là tự mình
tu hành đoạn sạch vô minh
phiền não, phước huệ tròn
đầy, thấu đạt chơn lý của
vạn hữu, không còn sanh tử
luân hồi.
Giác tha, nghĩa là đem sự
giác ngộ của mình đã chứng
đạt giáo hóa người đời, để
cho chúng sanh biết phản
tỉnh tu hành, hồi tâm
hướng thiện.
Giác hạnh viên mãn, nghĩa
là Phật đem sự giác ngộ
của mình ra dạy dỗ chúng
sanh, khiến cho chúng sanh
theo đó tu hành chứng
thành đạo quả, thoát khỏi
vô minh phiền não sanh tử
luân hồi. Như thế, Phật đã
giác ngộ và chúng sanh
nghe theo Phật dạy phát
tâm tu hành cũng giác ngộ,
cả Phật và chúng sanh đồng
giác ngộ, nên gọi là giác
hạnh viên mãn.
Phật là người đã đạt đức
tánh đại từ, đại bi, đại
hỷ, đại xả, đại giác ngộ.
Ðem suốt trọn đời mình lo
cứu tế nhân loại chúng
sanh đang trầm luân khổ
hải, thương chúng sanh như
mẹ hiền thương con nhỏ,
nhất tâm quyết chí xây
dựng hạnh phúc chân thật
cho muôn loài chúng sanh.
Như thế há không xứng đáng
gọi là quý báu hay sao?
Phật đã thật sự đem hạnh
phúc chân thật cho con
người, nếu người biết sống
theo lời Phật dạy. Vì thế
nên người đời gọi là Phật
bảo. Như thế Phật không
đáng cho người đời tôn
kính nương tựa quy ư ?
Pháp là giáo pháp, là lời
dạy của Ðức Phật. Ðức Phật
là bậc đại giác ngộ, nên
lời dạy của Ngài là những
lời giác ngộ, đúng với
chân lý, thích hợp với căn
tánh chúng sanh. Cũng như
vị thầy thuốc giỏi bắt
mạch cho toa thì trúng
bệnh của mỗi bệnh nhân.
Như bậc đạo sư kinh nghiệm
dẫn đường thì không lạc
lối. Ðức Phật ra đời vì
mục đích cứu độ chúng
sanh. Kinh Pháp Hoa Phật
nói: "Ta ra đời vì một đại
sự nhân duyên lớn là khai
thị chúng sanh, để chúng
sanh ngộ nhập tri kiến
Phật". Tức là làm cho mỗi
chúng sanh liễu ngộ Phật
tánh của mình. Cho nên
giáo pháp của Ngài nói ra
đều nhằm mục đích trị bệnh
chúng sanh hết mê lầm
phiền não, được thanh tịnh
an vui. Chẳng hạn thuốc Bố
thí thì trị bịnh tham lam
bỏn xẻn; thuốc Nhẫn nhục
thì trị bịnh nóng giận;
thuốc Hỷ xả trị bịnh cố
chấp; thuốc Tinh tấn thì
trị bịnh lười biếng; thuốc
Trì giới thì trị bịnh
buông lung; thuốc Ái ngữ
thì trị bịnh ác khẩu;
thuốc Quán bất tịnh thì
trị bịnh tham dục; thuốc
niệm Phật thiền định thì
trị bịnh tâm loạn động.
Người biết dùng thuốc giáo
pháp của Phật thì sẽ có
đời sống từ bi, hỷ xả, lợi
tha, thanh tịnh an lạc và
đạt được hạnh phúc giải
thoát ngay trong hiện đời
chớ chẳng phải tìm đâu xa.
Chúng sanh căn tánh không
đồng, nên giáo pháp của
Ðức Phật có muôn vạn pháp
môn. Quý vị thử áp dụng
một trong những pháp môn
Phật dạy thì sẽ thấy đời
của quý vị an vui tiến bộ
ngay.
Những lời Phật dạy làm cho
ta hạnh phúc thánh thiện
tiến hóa trên đường giác
ngộ, từ phàm đến thánh, há
không đáng được gọi là quý
báu ư? Do ý nghĩa này mà
người đời tôn kính những
lời dạy của Ðức Phật xưng
là Pháp bảo, là nơi để
nương tựa quy y.
Tăng là người thoát ly sự
ràng buộc gia đình, xuất
gia tu theo hạnh Phật,
sống đời sống từ bi hỷ xả
lợi tha với ý chí cầu đạo
vô thượng Bồ đề. Tăng là
người tu hành quyết đoạn
trừ phiền não tham sân si,
mang tâm nguyện hiến dâng
đời mình cho sự nghiệp
giác ngộ giải thoát, cho
lợi tha hạnh phúc nhân
loại. Tăng nói cho đủ là
Tăng già, có nghĩa là một
đoàn thể người xuất gia
sống hòa hợp chuyên tâm
tập sống đời sống thanh
tịnh như Ðức Phật với tâm
nguyện cầu giác ngộ, độ
mình và độ người, sống
bằng sáu pháp lục hòa. Thế
nào là sống lục hòa? Ấy là
nếp sống: 1/ Thân hòa cùng
chung ở; 2/ Miệng nói lời
hòa dịu không tranh cải;
3/ Ý hòa cùng vui vẻ; 4/
Vật thọ dụng cùng hòa chia
sẻ cho nhau; 5/ Ý hay lời
đẹp cùng hòa giải thích
trao đổi; 6/ Cùng chung
thọ trì giới luật của Phật
hòa vui tinh tấn tu hành.
Người xuất gia làm Tăng là
người quyết tâm dứt khoát
bước ra khỏi nhà thế tục,
nhà phiền não và nhà tam
giới (dục giới, sắc giới
và vô sắc giới) sanh tử
luân hồi. Hành trang của
người xuất gia là trì giới
thanh tịnh. Có trì giới
thanh tịnh thì trí huệ
phước đức mới phát sanh,
mới có cơ hội thành đạo
chứng quả, mới có khả năng
cứu độ chúng sanh. Kinh
Thủ Lăng Nghiêm nói: "Sanh
tử căn bổn dục vi đệ
nhất". Nghĩa là ái dục là
nguồn gốc của sanh tử luân
hồi khổ đau. Muốn thoát
khỏi sanh tử luân hồi phải
trừ ái dục. Muốn đoạn trừ
ái dục tham sân si thì cần
phải giữ giới thanh tịnh.
Có giữ giới thanh tịnh, có
trang trải tình thương
bình đẳng cho mọi người,
có sống cuộc đời vị tha
thuận hợp với luân thường
đạo lý, nghĩ như chánh
pháp, nói như chánh pháp
và làm như chánh pháp thì
mới gọi là Tăng.
Người bỏ xả hết tất cả,
nguyện sống đời sống thanh
tịnh đạo đức, mang đại
nguyện lợi tha độ đời,
đem trọn hiến dâng cho đạo
pháp làm lợi ích chúng
sanh, như thế không xứng
đáng là quý báu ư? Vì đặc
tính vị tha cao thượng
hướng mình và người trên
đường giải thoát, nên gọi
là Tăng bảo. Như thế thì
Tăng bảo không xứng đáng
là nơi để cho chúng sanh
quy y nương tựa học hỏi ư?
Tuy nhiên trong hàng Tăng
có chơn tăng và ngụy tăng.
Người Phật tử phải sáng
suốt chọn chơn tăng mà quy
y để cầu học. Không quy y
Tăng là không đủ Tam Bảo.
Không quy y Tăng thì không
thể nào thông hiểu Phật
lý, không thể nào đi đúng
đường tu hành, không thể
nào tránh được tội ngã mạn
cống cao, và không thể nào
tránh xúc phạm vào một
trong ba ngôi Tam Bảo.
Không thể ỷ vào thế trí
biện thông kinh sách nằm
lòng mà không cần Tam Bảo.
Hiểu giáo lý của Phật bằng
sự thể hiện thực hành chứ
không thể nói suông. Nếu
chỉ nói suông giáo lý Phật
một cách làu làu vanh vách
mà trong lúc đó lại kém
khuyết sự hành trì thì
chẳng khác nào băng
cassette, muổng múc canh,
người điếc đánh đờn hay,
kẻ ngày ngày đếm bạc giỏi
cho người triệu phú. Cũng
không thể lấy cớ vào một
số ngụy tăng tà hạnh có
hành vi làm tổn thương đạo
Pháp mà bảo rằng Tam Bảo
không xứng đáng để quy y.
Như thế là phạm tội quơ đủ
cả nắm. Nên biết rằng mía
sâu có đốt, nhà dột có
nơi, cuộc đời vốn là tương
đối vàng thau lẫn lộn.
Chúng ta phải khôn ngoan
sáng suốt chọn đốt mía tốt
không sâu thưởng thức,
phải khéo lựa nhà không
dột để ấm thân, phải thận
trọng chọn vàng ròng để
làm của. Không quy y Tăng
thì trước nhất chính mình
mất nhiều lợi lạc, lại
phạm tội tăng thượng mạn,
phản bội lời Phật dạy. Là
Phật tử chân chánh nên
tránh quan niệm sai lầm
không quy y Tăng này.
Tam Bảo là đại lộ quang
minh dẫn người ra khỏi
rừng đêm chông gai tăm
tối. Tam Bảo là thuyền Bát
Nhã đưa người qua biển khổ
trầm luân. Nên Cổ đức có
kệ:
Mang mang trường dạ
trung
Tam Bảo vi minh đăng
Thao thao khổ hải nội
Tam Bảo vi từ thuyền.
Dịch:
Hoang mang giữa quãng
đêm dài
Này nơi Tam bảo là đài
quang minh
Ngập trời biển khổ lênh
đênh
Này nơi Tam Bảo sinh
linh thuyền từ.
4. - Chọn pháp môn tu.
Sau khi đã phát tâm quy y
Tam Bảo, đã trở thành
chánh thức là một Phật tử,
thì người Phật tử phải
chọn pháp môn để tu hành.
Có tu hành mới tìm được
nguồn an lạc, mới có thể
thành đạt đạo Bồ đề. Vì
chúng sanh căn tánh bất
đồng, nên Ðức Phật cũng
tùy theo đó chỉ bày nhiều
pháp môn tu khác nhau, để
thích ứng căn cơ trình độ
của mỗi chúng sanh. Người
Phật tử phải nên hết sức
khách quan để chọn thầy,
chọn bạn, chọn pháp môn
tu. Sau khi chọn pháp môn
tu rồi, phải thường xuyên
chuyên cần thực hành, đồng
thời thường đem chỗ sở
học, sở tu, sở hành và
những hiện tưọng cảm nhận
mình đã thu hoạch để thưa
hỏi với bậc thầy mà mình
quy y, hay bậc minh sư
thiền đức mà mình thấy có
thiện duyên.
Trên đưòng tu tập rất dễ
bị tà ma giả hiện làm Phật
và dụ dẫn người tu vào
đường "tẩu hỏa nhập ma",
tức là dễ lạc rơi vào
đường tà nhơn cám dỗ, tà
ma ngoại đạo (xin xem
Triết Lý Thủ Lăng Nghiêm,
phần ngũ ấm ma). Cổ đức
thường nói: "Phật cao nhất
xích, ma cao nhất trượng".
Nếu không có thể bậc minh
sư chỉ đạo thì mình cứ lầm
tưởng ma là Phật, cứ ngỡ
là mình đã chứng đạo, rồi
vui mừng tự đắc chấp chặt
vào đó để rồi vào làm
quyến thuộc của ma mà
không tự biết. Từ đó, đến
đâu, ngồi đâu cũng nói
chuyện chứng thánh, chuyện
tiếp nhận ân điển viễn
vông, nói những điều tưởng
tượng nào là đi vân du
thiên giới, tiên cảnh
v.v... chứng đắc, xuất hồn
xuất viá, thấy Phật này Bồ
Tát nọ. Những điều đó
không đúng lời Phật dạy,
không đúng chánh pháp chút
nào. Như thế, từ cuộc sống
không tưởng này đưa đến
tâm trí không còn bình
thường, niềm tin mù quáng,
tạo thành tâm trí băng
hoại, hạnh phúc gia đình
dần dần tan rã, bà con
quyến thuộc lạnh nhạt xa
lìa. Ðó không phải là lối
tu sống của người Phật tử
chân chánh.
Suốt tam tạng kinh điển
diễn thuật trọn cuộc đời
Ðức Phật hoằng pháp độ
sanh, Ngài chưa từng nói
những điều kỳ hoặc đó.
Suốt tam tạng kinh điển
cũng không có một câu văn
một bài kệ nào nói việc kỳ
dị để khiêu gọi thị hiếu
nhằm huyễn hoặc lòng người
như vậy.
Tổ Quy Sơn dạy:" Như sư
thật bất minh, đương biệt
cầu lương đạo". Nghĩa là,
nếu như Thầy mình không
phải là bậc minh sư sáng
suốt, có đủ khả năng hướng
dẫn mình tiến tu trên
đường giác ngộ giải thoát,
thì mình nên sớm đi tìm
bậc minh sư khác để học
đạo. Rủi gặp phải tà sư
bạn ác thì mình phải dứt
khoát thái độ, sớm xa lánh
để khỏi rơi vào quyến
thuộc của ma. Hoặc bậc
Thầy mà mình quy y đã qua
đời hay ở xa không liên
lạc học hỏi đạo lý được,
thì nên tìm xin y chỉ vị
Thầy đạo đức sáng suốt
khác, để cầu học hỏi Phật
Pháp tu hành. Không nên có
thái độ cố chấp, viện lẽ
là mình đã quy y rồi, nên
không cần quy y nữa. Cũng
không nên có quan niệm sai
lầm cố chấp, Thầy tôi dù
sao đi nữa cũng là Thầy
tôi, rồi mù quáng chấp
chặt mãi vào đó để cho có
lệ, không biết cầu học
tiến tu.
Người Phật tử chân chánh
cũng không nên có thái độ
cực đoan là, khi thấy vị
Thầy mà mình đã quy y hoặc
vị khác thôi tu hoàn tục,
rồi sanh tâm thất vọng uất
ức buông ra những lời
nguyền rủa tệ bạc. Như thế
là tự mình cao ngạo gây
tội tội lỗi nặng nề. Vì
sao? Bởi vì, khi người hết
duyên hành đạo sống đời
xuất gia, thì đường đường
chánh chánh hoàn tục ra
đời kết thê lập nghiệp, tu
hạnh cư sĩ đâu có gì lạ?
Bởi duyên xuất gia đến đó
là kết thúc. Ðìều đáng sợ
nhất và tội lỗi nhất là,
kẻ mặc chiếc áo tu, mà tâm
hành thế tục, mưu cầu lợi
dưỡng, trọng danh lợi cá
nhân hơn đoàn thể, lo ích
kỷ phần mình hơn là việc
lợi tha, đó mới là loại
mối mọt đục khoét ngôi nhà
Phật Pháp. Ðấy mới là mối
lo âu lớn lao cho tiền đồ
Phật giáo, là tai họa của
đạo pháp. Ðáng lo ngại
nhất, kẻ mang hình thức
Tăng ở chùa mà tâm địa thế
gian, làm cho đạo pháp tan
hoang. Kinh Phật nói loại
người này là: "Sư tử trùng
thực sư tử nhục".
Là Phật tử chơn chánh phải
hết sức cẩn trọng trong
việc tìm thầy chọn bạn để
học đạo; phải biết sống
đời sống kiên nhẫn, dũng
cảm trong việc hộ trì đạo
pháp, dù gặp phải nguy
khó. Là Phật tử chân chánh
phải có tâm chí cầu tiến
bộ hướng thượng không
ngừng; phải thận trọng
sáng suốt không để tình
cảm dẫn dụ kéo lôi, không
để trò huyễn thuật mê
hoặc. Là Phật tử chơn
chánh nên thực hành theo
lời Phật dạy. Nên theo gót
bậc chân Tăng thì nhất
định sẽ gặp được Phật.
Là Phật tử chân chánh,
muốn có được đời sống an
lành hạnh phúc tiến bộ,
chóng thành đạo quả giác
ngộ thì phải hết sức cẩn
trọng trong việc chọn
thầy, chọn bạn, chọn pháp
môn tu, chớ để tánh hiếu
kỳ dẫn dắt, thì mới khỏi
oan uổng công phu tu tập
suốt cả một đời.
5. - Phụng sự đạo pháp.
Sau khi đã quy y Tam Bảo,
đã tìm minh sư bạn tốt học
đạo, đã chọn pháp môn tu
hành, thì người Phật tử
chân chánh nhất định không
quy y thiên thần qủy vật,
ngoại đạo tà giáo, quyết
không tin theo lời khuyến
dụ của bạn tà, ác đảng
ngụy trang thân thiện nhơn
nghĩa, tự xưng Phật này
nhập về mình, Thánh kia đã
chứng cho, Bồ Tát nọ đã
nói chuyện. Tất cả đều là
huyễn thuật hoang đường,
đều là ý đồ tà tâm mê
hoặc.
Cuộc đời dưới con mắt của
người thường, thì vàng
thau lẫn lộn, thánh phàm
khó phân. Thế gian này
cũng lắm tổ chức, chùa
viện với nhãn hiệu từ
thiện tu hành, và cũng đã
có biết bao kẻ hiếu kỳ nhẹ
dạ, cả Phật tử nữa đã
nhiệt tâm muốn làm việc
hữu ích, vội vã tin theo,
tổn công phí sức, tiêu hao
tiền của, mà không đạt
được như ý nguyện, rồi đâm
ra thất vọng oán thán. Lại
có những Phật tử nghe lời
ngọt bùi của bạn bè, hoặc
nghe những lời than vãn
của kẻ mang lớp áo nhà tu,
những người mang danh
nghĩa hộ đạo giúp chùa làm
từ thiện, hay nông nổi vội
tin ông kia bà nọ tu đắc
đạo chứng quả rồi hấp tấp
chạy theo, tốn hao tiền
của, tâm thần không còn
bình thường, gia đình mất
hạnh phúc. Ðó là hậu quả
của những kẻ thiếu sáng
suốt để chọn thầy tốt, bạn
hiền, những kẻ hiếu kỳ vội
tin lời bùi ngọt, để phục
vụ cho tà đạo tà pháp tà
sư.
Người Phật tử chân chánh
phải bình tĩnh nhận định,
phải học hỏi bậc minh sư.
Người học Phật không thể
để tình cảm phủ che lý
trí.
Ðiều hết sức lưu ý là đừng
nghe lời rỉ tai dụ hoặc về
chuyện kỳ lạ bà kia ông nọ
chứng thánh chứng thần. Ðó
là chứng đạo tà ma chứ
không phải là chân chánh
Phật. (Xin xem Triết Lý
Thủ Lăng Nghiêm, phần Ðại
thừa Tâm giới).
Là Phật tử chân chánh điều
tối quan trọng là phải
biết chọn thầy để quy y,
phải biết chọn pháp môn để
tu hành, phải biết bình
tâm thanh tịnh hóa đời
mình mỗi lúc một thêm tiến
bộ, và phải ngày đêm tận
tâm phục vụ chánh pháp
đúng chỗ, để cho vườn
phước đức trổ hoa, để cho
tâm Bồ đề tỏa ngát hương
giải thoát, để cho đời
mình mát tươi và để cho
tâm mình mở rộng biển trí
tuệ thênh thang. Thế mới
là Phật tử chân chánh.
0 comments:
Post a Comment