Wednesday, May 2, 2012

Hạnh phúc


Pubbe ca katapuññatāTánh cách người có việc lành để dành trong kiếp trước
Câu này dạy rằng người đã làm phước trong kiếp trước, ngày hôm nay được thọ hưởng phước ấy.
Khi được lợi lộc hay thoát khỏi một tai nạn, người ta cho rằng đó là sự tình cờ, hay là sự may mắn. Thật ra, đó là quả báo của việc lành mà người ấy đã làm trong nhiều kiếp trước. Người có ít nhiều tâm đạo cho rằng đó là phước.
Phước là gì? Phước là những lạc thú ở đời, như giàu sang quyền tước, danh vọng v.v... Theo quan niệm thông thường, nếu đem phước ra phân tách thì thấy có ba nhân tố:
1. Nhân của phước: là điều mà mình đã làm với tâm trong sạch, mà sau khi làm xong, không hề ăn năn hối tiếc, trái lại thấy trong lòng hân hoan, vui vẻ, thỏa thích.
2. Quả của phước: là sự an vui mà mình đang hưởng như giàu sang, quyền chức v.v...
3. Lý của phước: là sự may mắn đến cho ta, và khiến ta tránh khỏi được sự tai nạn. Cái lý ấy người không tu Phật gọi là tình cờ, thí dụ như mình muốn đi chuyến xe sáng, nhưng khi ra xe thì xe đã chạy, mình phải chờ đến chuyến xe sau. Chuyến xe sáng ấy lại bị tai nạn giữa đường. Đó là tình cờ mà mình tránh được tai nạn mà đó cũng là phước báu của mình để dành từ khi trước. Đây là lý của phước.
Có ba nguyên nhân sanh phước:
- Tâm trong sạch.
- Ba cửa (thân, khẩu, ý) thanh tịnh.
- Tâm không rung động, nghĩa là kinh sợ tội lỗi.
1. Tâm trong sạch: là tâm không lẫn lộn với tội ác như tham lam, sân hận, si mê, và tâm bằng nhớ đến ân đức Tam Bảo.
Trong kinh Pháp Cú có chuyện ông Mattha-kundali là con của một ông trưởng giả có tiếng là keo kiệt nhất trong xứ. Khi ông Matthakundali bệnh, ông trưởng giả không rước thầy xem bệnh cho thuốc, mà ông đi hỏi bệnh thế này uống thuốc gì? Các thầy biết ông ta bỏn xẻn, keo kiệt nên ghét, chỉ thuốc căn không đúng căn bệnh, làm cho con ông càng ngày càng đau nặng. Ông trưởng giả thấy con bệnh nặng, sợ để trong nhà quyến thuộc đến thăm tốn kém này nọ, nên ông đem con ông nằm ngoài hiên.
Vì ông Matthakundali là người tạo nhiều duyên lành để dành từ kiếp trước, nên đêm ấy Đức Thế Tôn dùng tuệ xem ai có duyên để Ngài độ. Đức Thế Tôn thấy ông Matthakundali có duyên, nên sáng ngày, Đức Phật ngự đến ngay trước nhà của ông trưởng giả để độ con ông. Nhưng ông Mattha-kundali lại nằm quay mặt vào vách nên không thể thấy Phật được. Đức Phật lại hiện hình trên vách, ông Matthakundali trông thấy Đức Thế Tôn tướng hào quang minh, ông lấy làm trong sạch và nghĩ rằng: "Ta vô phước sanh làm con của người keo kiệt không được làm việc lành. Hôm nay không thể đưa tay lên được làm sao làm lễ Phật. Thôi chỉ có lấy lòng kính Phật, xin làm lễ Đức Chí Tôn".
Khi ông nghĩ xong thì tắt hơi, được sanh về cõi trời nhờ tâm ông trong sạch.
2. Ba cửa thanh tịnh: là thân, khẩu, ý thanh tịnh. Thân thanh tịnh là không sát sanh, không trộm cướp, và không tà dâm. Khẩu thanh tịnh là không nói dối, không nói đâm thọc, không chửi rủa mắng nhiếc và không nói lời vô ích. Ý thanh tịnh là không oán thù, không tham lam, không tà kiến.
3. Tâm rung động: là tâm kinh sợ tội lỗi. Vì chúng sanh còn say mê theo tài sắc, lợi danh, tâm ác của họ không bao giờ biết rung động (sợ) trước tội lỗi mà chính mình đã làm, trong lúc họ say mê theo sắc, lợi, danh; thậm chí cha, mẹ, anh em thân bằng quyến thuộc bỏ họ ra đi về cảnh giới khác họ chẳng hề nao núng và chẳng thể nghĩ rằng: ngày nào đây họ cũng sẽ bỏ những gì mà họ đã có ra đi với hai tay không, cùng một khối tội lỗi nặng nề đè trên tâm hồn họ. Người không biết kinh sợ thì không hề biết lo tu hành, vì vậy, nên không bao giờ được một phút thoải mái, một phút an lành. Vậy, ta nên để tâm rung động ghê sợ trước những biến cố đau khổ để gắng lo tu hành, để được hạnh phúc trong kiếp này và giải thoát trong ngày vị lai.
Theo đây tôi xin nhắc tích của Đại đức Yassa, người đã biết ghê sợ trước những xác thân mỹ miều.
Sau khi chuyển Pháp Luân tại vườn Lộc Giả Bārānasī, Đức Thế Tôn tạm ở với năm anh em Kiều Trần Như. Lúc ấy tại thành Bārānasī có người tên Yassa, con của một vị trưởng giả cưng như viên ngọc quý, cất trong ba tòa lầu để trong ba mùa, ngày đêm yến tiệc linh đình, tiếng ca hát không bao giờ dứt. Đêm nọ, Yassa đang xem mỹ nhân múa hát, ông phát chán rồi bỏ đi ngủ. Khuya lại ông tỉnh giấc, thấy những mỹ nhân đang ngủ, mồ hôi xông ra mùi khó thở, có cô nước miếng chảy ra, có cô ngáy om sòm, ông cảm thấy đó là những tử thi và ông tưởng đang đứng giữa bãi tha ma. Ông lấy làm kinh sợ và thốt rằng: "Thế gian này bẩn thỉu quá!", ý ông muốn nói thế gian này toàn là những vật nhơ nhớp, người bị nhốt trong vòng tỏa của sự đau khổ, không biết nương tựa vào đâu được.
Rồi ông bỏ lầu ra đi về hướng vườn Lộc Giả. Đức Thế Tôn biết duyên lành của ông đã đến, nên ngồi chờ ông tại một nơi. Nơi đó ông vừa đi vừa lập lại câu: "Thế gian này bẩn thỉu quá!" Đức Thế Tôn gọi Yassa và nói rằng: "Đây không bẩn thỉu, không bực bội, ngươi hãy đến đây." Ông Yassa mới đến gần và đảnh lễ Đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn mới thuyết về Anpubbikathā cho ông nghe. Sau khi nghe xong thời pháp, ông đắc quả Tu Đà Hườn, đến sáng ngày ông đắc quả A La Hán. Sau 5 thầy Kiều Trần Như, ông là vị A La Hán thứ sáu trong Phật Giáo.
Nhân đó, Đức Phật dạy cho đệ tử nghe rằng: Kiếp trước, ông Yassa là người làm nghề thiêu tử thi. Có ngày nọ ông thiêu tử thi của một người đàn bà có thai. Khi đốt tử thi cháy, ông thấy đứa trẻ lòi ra trông rất ghê tởm. Ông phát tâm chán sợ ve sự nhơ nhớp của xác thân. Đó là cái nhân, đến kiếp này ông thấy mỹ nữ là những tử thi.
Đây tôi xin nói tóm về pháp Anpubbikathā của Đức Phật đã thuyết cho Đại đức Yassa là pháp hành theo tuần tự 5 điều:
- Dāna: Dạy về bố thí.
- Sīla: Dạy về trì giới.
- Sagga: Dạy về an vui trong cõi trời.
- Kāmādinava: Dạy về tội của ngũ trần.
- Nekkhammanisansa: Dạy về cái quả của sự xuất gia.
Sỡ dĩ pháp đó gọi là pháp đi theo tuần tự là vì trước hết Đức Phật dạy về bố thí, rồi bậc thứ nhì là trì giới, sau Ngài mới theo về sự an lạc cõi trời, tiếp theo là nói đến cái hại của sự ngũ trần là nhân làm cho người đi theo từng bậc thấp đến cao mà không hay.
Nếu ta hành được pháp tuần tự đó thì tạo được nhân sanh phước và ta tạo được phước lành để dành trong kiếp trước, thì chắc chắn chúng ta sẽ được hưởng phước trong ngày vị lai.
Có người hỏi: Có ai cướp được hạnh phước báu của ta chăng?
Đức Thế Tôn dạy: Phước ấy theo ta như bóng với hình, không ai có thể trộm cướp hay cưỡng bách hoặc làm mưu kế gì để giựt phước ấy được, chẳng khác gì hạt ngọc Siri trong sự tích sau đây:
Khi Đức Thế Tôn còn tại thế, ông trưởng giả Cấp Cô Độc làm phước bố thí cho đến khi nghèo. Ông làm chùa Kỳ Viên, mua vườn xoài nhà vua bằng cách trải vàng đầy mặt đất. Vì vậy chùa Kỳ Viên cũng có tên là Bố Kim Tự. Ngoài ra ngài còn làm phước bố thí nhiều không kể hết. Ông làm phước đến đói nghèo. Nhưng về sau ông giàu trở lại.
Có thầy Bà la môn tìm hiểu xem tại sao ông giàu, rồi làm nghèo, trở lại giàu, thầy Bà la môn thấy trên đầu một con gà trống ở nhà ông trưởng giả có viên ngọc Siri. Thầy liền đến xin con gà ấy và thầy tin chắc rằng ông trưởng giả ấy sẽ cho vì thầy viện lẽ rằng, nhà thầy có gà, nhưng toàn là gà gáy sai canh, cần một con gà gáy đúng canh để học trò dậy học bài. Ông trưởng giả vốn là người giàu lòng bố thí thì con gà đối với ông không có nghĩa lý gì, nên ông cho liền. Khi ông trưởng giả bằng lòng cho con gà thì ngọc Siri lại bay qua đậu trên cây gậy của ông trưởng giả: thầy Bà la môn xin luôn cây gậy, ông cũng cho, thì Siri bay lên đậu trên đầu của bà trưởng giả.
Chừng ấy thầy Bà la môn mới thú nhận: "Tôi xin trả lại con gà trống trắng và cây gậy lại cho ông. Thật ra tôi thấy ngọc Siri của gia đình ông ở trên đầu con gà, nên tôi mới xin nó, không dè ngọc Siri lại bay đậu trên cây gậy của ông, rồi tôi xin cây gậy thì ngọc Siri ấy lại bay đậu trên đầu bà. Ngọc Siri thật là quí mà không ai lấy được".
Vậy khi có phước thì không ai làm thế nào cướp lấy được phước của ta. Muốn ta tạo ra phước có ba cách phải hành:
- Bố thí để trừ tham lam.
- Từ bi để diệt lòng sân hận.
- Tham thiền theo hai pháp: Chỉ quán và Minh sát, để trừ si mê và tà kiến.
Nhưng phải hành ba pháp đó bằng tâm trong sạch, sốt sắng, quyết định, thì quả phước đó đến cho ta mau lẹ. Trái lại, nếu ta làm chần chừ dãi đãi, dụ dự thì quả lành cũng đến chậm chạp. Lẽ cố nhiên, mỗi khi ta muốn làm một việc gì quấy, thì cả trăm tâm ác xô đẩy xúi giục ta mau mau thi hành việc quấy ấy, có khi ta muốn làm lành như bố thí, thì hằng ngày cái tâm ác kéo lại không cho ta thực hành.
Phước đem lại cho ta rất nhiều lợi ích và an lành cho ta như là:
1. Ajeyya: không ai dành lấy được.
2. Anugaminī: theo dính bên mình ta.
3. Etam adaya gacchati: khi người bỏ xác thân này không đem theo gì được, chỉ có đem được phước theo mà thôi.
4. Asadharana: phước không phải là của chung, nghĩa là của ai tạo thì nấy hưởng, chớ không phải của người này tạo mà người kia hưởng được, mặc dù là quyến thuộc.
5. Acoro: kẻ trộm không thể lấy được.
6. Sabbakamadda: phước ấy trả quả cho người tạo được an vui và đắc kỳ sở nguyện.
7. Yam yam devabhipatthanti: nguyện vọng gì đều được kết quả như ý.
8. Suvannata: có làn da đẹp.
9. Susara: có tiếng hay (trông nghe rất hay).
10. Susanthana: có tướng tốt.
11. Surupata: có thân hình đẹp.
12. Adhipaccam: được chức phận lớn.
13. Parivaro: có được nhiều người tâm phúc.
14. Padesarajjam: được làm vua trong một xứ
15. Issariyam: được độc lập, nghĩa là không dưới quyền ai.
16. Cakkavatti: được làm vua Chuyển luân vương.
17. Devarajjampi: được làm thiên vương.
18. Manussika: được sanh làm người giàu sang.
19. Devaloka: được sanh vào cõi trời.
20. Nibbanasampati: đắc được quả vô thượng là Niết Bàn.
21. Mittasampadamagamma: được có nhiều bạn lành.
22. Vijjavimutti: đắc được ba minh.
23. Patisambhida: đắc được ngũ thông.
24. Vimokkha: được giải thoát.
25. Savakaparamī: đắc được Ba la mật của bậc đệ tử Phật.
26. Pacekabodhi: đắc được quả Độc Giác Phật.
27. Buddhabhūmī: đắc quả Chánh đẳng Chánh giác.
28. Sukkhanam nidanam: phước là nhân của tất cả các sự hạnh phúc.
29. Sampattīnam mūlam: phước là nguồn gốc đưa lại của cải.
30. Bhoganam patothita: phước là nguồn gốc sanh ra tài sản.
31. Visamagatassatnam: phước là vật vô giá cho người còn đang luân hồi.
32. Dānasadiso avassayo: không có gì nương nhờ chắc chắn bằng phước.
33. Sihanadisam: phước ví như hang sư tử, nghĩa là nơi mà các con thú khác không dám léo đến, người có phước không bao giờ gặp tai nạn của kẻ ác gây nên.
34. Papahapathavi sadisam: phước ví như quả địa cầu chở người có phước.
35. Rajjudisam: phước ví như sợi dây cột tâm lại, không cho đi lầm đường.
36. Navasadisam: phước ví như thuyền chở người qua bể khổ.
37. Sagamasuro: phước ví như vị tướng tài can đảm đánh tan quân thù nơi trận địa.
38. Susankhatanagaram: phước ví như kinh thánh mà người ta trang điểm huy hoàng.
39. Padumasadisam: phước ví như hoa sen không hôi tanh mùi bùn, nghĩa là không hề đưa người đi vào đường tội lỗi.
40. Aggisadisam: phước ví như lửa đốt cháy phiền não trong tâm.
41. Asīvissadisam: phước ví như rắn độc vì nó cắn chết tội.
42. Sihasadisam: phước ví như sư tử, vì sư tử rất can đảm khi đứng trước kẻ thù là tội lỗi.
43. Setavabhasadisam: phước ví như bò Usabha, vì bò này quý nhất thế gian.
44. Hatthisadisam: phước ví như bạch tượng, là thú quý nhất.
45. Vahassaraja Sadisam: phước ví như thiên lý mã chở người bay qua bể khổ luân hồi.
46. Gatamaggam: phước là con đường đi của các bậc thánh nhân.
47. Buddhavansam: phước là dòng của Phật, nghĩa là muốn đắc quả Phật thì phải tạo nhiều phước.
Phước còn đem lại cho ta nhiều hạnh phúc như là vật thực trong đời vị lai của người chưa đi đến Niết Bàn.
Phước là nguyên nhân cho người được ba điều an lạc là Nhân, Thiên, và Niết Bàn.
*

0 comments:

Post a Comment