Đậu nành còn có tên là đậu tương. Nguồn gốc cây này ở Trung Quốc,
sau lan sang Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên. Châu Âu mới biết đến đậu
nành từ thế kỷ 18. Từ cổ xưa, đậu nành dùng làm thực phẩm, nhưng gần đây
y học thế giới phát hiện ra nhiều tác dụng chữa bệnh của nó.
Điều trị chứng mãn kinh
Triệu chứng của mãn kinh khởi đầu từ
3-5 năm trước khi mãn kinh thực sự, tiếp tục tăng vào tuổi mãn kinh và
4-5 năm sau mãn kinh, chỉ ngừng khi cơ thể thích nghi với cân bằng
hormon mới.Các triệu chứng thường thấy là bốc hỏa, đổ mồ hôi, mất ngủ,
trầm cảm, đái dầm, lão hóa da, rụng tóc, bệnh tim mạch, suy giảm nhận
thức…
Liệu pháp thay thế hormon có hiệu lực
cao nhưng cũng có nhiều tai biến (rối loạn nội tiết, ung thư…) nên không
kéo dài quá 5 năm. Phụ nữ phương Đông, so với các nước phương Tây, ít
phàn nàn về các rối loạn của mãn kinh. Nghiên cứu dịch tễ học cho thấy
các dân tộc phương Đông dùng nhiều đậu nành với nhiều cách chế biến khác
nhau.
Gần đây, người ta phát hiện thấy trong
hạt đậu nành có isoflarm còn gọi là estrogen thực vật (phytoestrogen);
hoạt chất này góp phần làm cân bằng hormon ở phụ nữ mãn kinh, cải thiện
rõ rệt các triệu chứng khác của tuổi mãn kinh như: Bốc hỏa, đổ mồ hôi
đêm, trầm cảm, khô âm đạo…
Tác dụng chuyển hoá xương
Tác dụng chuyển hoá xương
Thống kê dịch tễ học cho thấy: Tỷ lệ
gãy xương ở phụ nữ châu Á thấp hơn rõ rệt so với phụ nữ ở các nước
phương Tây. Kết quả này có liên quan tới sử dụng nhiều thức ăn chế biến
từ đậu nành. SI (isoflarm của đậu nành) làm tăng mật độ khoáng tại các
đốt sống 1,2 đến 1,4 lần (so sánh với phụ nữ dùng thức ăn ít có đậu
nành). Ở chuột thực nghiệm, SI làm giảm nguy cơ loãng xương do ức chế
hoạt tính của hủy cốt bào, nên có tác dụng hiệp đồng chống tiêu xương.
Tác dụng trên tim mạch
Tác dụng trên tim mạch
Các nhà khoa học thuộc Hội mãn kinh ở
Bắc Mỹ đã kết luận: Đậu nành và các chất chiết từ đậu nành có tác dụng
sau đây: Giảm huyết áp tâm trương. Giảm cholesterol toàn phần, giảm
cholesterol xấu (tức LDL-cholesterol). Ngăn chặn sự tiến triển của các
mãng xơ vữa. Cải thiện tính đàn hồi của động mạch. Do đó, ở Mỹ, Cơ quan
quản lý thực phẩm và thuốc (FDA) từ năm 1999 đã cho phép dùng đậu nành
để làm giảm nguy cơ động mạch vành.
Tác dụng trên các khối u phụ thuộc và hormon
Thống kê dịch tễ học cũng cho thấy một
số loại khối u phụ thuộc vào hormon (ở màng trong tử cung, ở vú, buồng
trứng…) có tỷ lệ rất thấp ở phụ nữ châu Á. Nhận xét này có liên quan tới
chế độ ăn giàu đậu nành ở công dân châu Á. Kết quả nghiên cứu về thực
nghiệm và lâm sàng cho thấy SI (isoflarm ở đậu nành) có tác dụng làm
giảm nguy cơ ung thư ở tử cung, vú và buồng trứng. Hướng nghiên cứu này
đang được tiếp tục.
Đậu nành dùng trong dinh dưỡng và công nghiệp
Đậu nành dùng trong dinh dưỡng và công nghiệp
Trong dinh dưỡng bột đậu nành trộn với
bột ngũ cốc, dùng làm thức ăn cho trẻ sơ sinh, người bị bệnh đái tháo
đường, bệnh gút… Trong công nghiệp dược, bột đậu nành dùng trong môi
trường nuôi cấy kháng sinh. Thống kê cho thấy trong 100 ngàn tấn acid
glutamic dùng trên thế giới, 1/3 do thủy phân đậu nành.
Do có sự cân bằng giữa tác dụng điều trị và độ an toàn, lại dễ sử dụng nên physoestrogen của đậu nành được xếp vào loại “chất bổ dinh dưỡng”, không cần đơn kê của thầy thuốc.
Do có sự cân bằng giữa tác dụng điều trị và độ an toàn, lại dễ sử dụng nên physoestrogen của đậu nành được xếp vào loại “chất bổ dinh dưỡng”, không cần đơn kê của thầy thuốc.
Theo Sức khoẻ & Đời sống
0 comments:
Post a Comment